Top 3 # Thuốc Ho Tây Y Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Visuantoancuaban.com

Tổng Hợp Thuốc Điều Trị Ho Trong Tây Y Thường Được Kê Đơn!

Mỗi dạng ho lại có những thuốc đặc trị, điều trị khác nhau. Việc sử dụng thuốc điều trị ho Tây y cần có chỉ định của bác sĩ, người bệnh tuyệt đối không tự ý mua thuốc sử dụng. Giới thiệu đến bạn đọc phân loại các dạng ho và thuốc điều trị ho dùng cho từng loại ho có thể được bác sĩ kê đơn điều trị, cũng như những lưu ý cần thiết cho người bệnh khi sử dụng thuốc trị ho.

Phân biệt các dạng ho

Trước hết phải khẳng định, ho là một phản xạ có điều kiện của cơ thể, là dấu hiệu của một số bệnh lý. Ho nếu kéo dài sẽ gây ảnh hưởng, phiền toái lớn tới sức khỏe cũng như sinh hoạt hằng ngày của người mắc bệnh. Về phân loại ho, ho được chi ra nhiều dạng khác nhau trong đó phải kể đến: Ho khan, ho có đờm, ho gà.

Ho khan: ho khan là tình trạng ho không có đờm, cổ họng bị ngứa rất khó chịu nhưng lại ít có cảm giác nặng ngực khó thở, người mắc chứng ho này có thể bị khan giọng hoặc mất tiếng. Trong các loại ho thì ho khan không phải là một tình trạng nghiêm trọng nhưng lại gây ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống hang ngày. Ho khan nếu không được điều trị đúng và để tình trạng bệnh kéo dài có thể dẫn đến nhiễm trùng tai, viêm thanh quản, viêm họng hoặc ung thư vòm họng.

Ho có đờm: tình trạng cổ họng có đờm, khi ho sẽ có triệu chứng như nặng ngực, khó thở và khạc ra đầy chất nhầy đờm. Đây có thể là tình trạng sau khi mắc các bệnh lý như viêm họng, viêm mũi và viêm xoang…

Ho gà: dạng ho nhiều liên tiếp, trong 1 thời gian ngắn sẽ có nhiều cơn ho cụ thể hơn khi người bệnh ho 1 cơn ho kết thúc sau đó hít một hơi lại tiếp tục ho. Ho gà thường kéo dài gây tăng áp lực lồng ngực gây ứ huyết tĩnh mạch chủ trên làm cho người bệnh đỏ mặt, tĩnh mạch cổ phồng, cơn ho có thể làm chảy nước mắt, đôi khi còn gây ra phản xạ nôn. Bên cạnh đó người bệnh có thể gặp thêm các triệu chứng như đau ê ẩm ngực, lưng và bụng do các cơ hô hấp co bóp quá mức.

Thuốc điều trị ho trong Tây y chia theo dạng ho

Mỗi dạng ho lại có những loại thuốc khác nhau để phù hợp với đặc trưng của từng loại ho. Cụ thể:

Thuốc đặc trị ho khan

Chất ức chế hoạt động bằng cách làm giảm kích thích ho và chứa nhiều hoạt chất như pholcodine, dextromethorphan, codeine, dihydrocodeine, pentoxyverine, eucalyptine, alyptin, chericof,…

– Các thuốc pholcodin và dextromethorpan hay dùng để trị ho, có ít tác dụng phụ so với codein. Dextromethophan là loại thuốc giảm ho có tác dụng lên trung tâm ho ở hành não, được sử dụng giảm ho do kích thích nhẹ ở phế quản, họng, ho khan mạn tính. Thuốc có độc tính thấp tuy nhiên nếu dùng với liều cao có thể gây ức chế hệ thần kinh trung ươngTuy nhiên có ít bằng chứng cho thấy các thuốc này có tác dụng trong trường hợp ho nặng.

– Các thuốc ho có chứa codein hay các opioid khác nói chung không nên dùng cho trẻ em, đặc biệt cấm dùng cho trẻ dưới 1 tuổi. Một chất có tiềm năng trị ho là cần cho việc điều trị chứng ho khó chữa ở thời gian cuối đời của bệnh nhân nặng không chữa được đó là morphin, nhưng chất opioid này không được coi là một loại thuốc ho.

Loại thuốc này có tác dụng giảm ho nếu bệnh ở tình trạng nhẹ. Ngoài ra, codein còn có tác dụng giảm đau trong khi bị đau nhẹ và vừa. Nhưng codein không đủ hiệu lực với các trường hợp ho khan nặng. Các tác dụng phụ thường gặp khi sử dụng loại thuốc này là có thể gây táo bón, an thần và lệ thuộc vào thuốc.

Thuốc đặc trị ho có đờm

Đối với tình trạng ho có đờm bác sĩ sẽ không kê các loại thuốc giảm ho mà sử dụng các loại thuốc long đờm, tống nhầy sẽ hiệu quả hơn cho người bệnh

Nhóm làm long đờm như: Guaiffenesin, Natribenzoat, Terpinhydrat

Nhóm làm tiêu chất nhầy: Acetylcystein, Ambroxol, Bromhexin, Carbocystein.

Terpin hydrat là thuốc có tác dụng hydrat hóa dịch nhầy phế quản, có tác dụng long đờm, giúp lông mao biểu mô phế quản hoạt động dễ dàng để tống đờm ra ngoài. Tuy nhiên mỗi đợt điều trị chỉ nên dùng từ 3 đến 5 ngày để tránh nhờn thuốc.

Bromhexin cũng là thuốc tiêu nhầy, có tác dụng điều hoà và tiêu nhầy đường hô hấp. Hầu hết các thuốc tiêu chất nhầy làm giảm độ nhớt của đờm, làm thay đổi cấu trúc của nó và cho thấy có tác dụng làm giảm ho, nhưng tác dụng trên chức năng của phổi không nhất quán. Các thuốc tiêu chất nhầy hay dùng có thể kể là: acetylcystein, bromhexim, carbocysstein, methylcystein. Về lý thuyết, thuốc tiêu chất nhầy có thể phá hỏng lớp chất nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày, nên cần thận trọng đối với những bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày.

Bên cạnh đó người bị hoa có đờm có thể sử dụng các chất làm ẩm để làm loãng niêm dịch, dịu cổ họng mũi. Việc làm ẩm đơn giản có thể thực hiện bằng cách hít thở không khí ẩm. Có thể dùng các chất như: menthol, benzoin, các tinh dầu… để đẩy mạnh việc hít thở này. Ngoài ra người ta còn sử dụng việc hít thở khí dung có nước, natri carbonat, natri chlorid, chất điện hoạt như tyloxapol, các enzym ly giải protein như chymotrypsin và trypsin do có tác dụng làm ẩm hay hủy chất nhầy thải ra ở khí quản.

Sử dụng các loại thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn như:

Erythromyxin liều dùng 20-40 mg/kg/ngày trong 8-10 ngày.

Ampixilin liều dùng 70-100mg/kg/ngày từ 8-10 ngày.

Dung dịch dimedron 0,15% uống 5-10 ml/lần, dùng 1 ngày từ 2-3 lần.

Kháng sinh Histamin tổng hợp.

Siro phennergan 10-20 ml/ngày, gadenal 3-4 mg/kg/ngày, seduxen 2-3 mg/kg/ngày.

Thuốc trị ho Tây y chia theo dạng thuốc

Thuốc kháng sinh trị ho dạng tiêm đưa trực tiếp thuốc vào bên trong cơ thể người bệnh thông qua tĩnh mạch nên hiệu quả nhanh. Đây là loại thuốc cần được thực hiện tại bệnh viện, bởi những bác sĩ có tay nghề, người bệnh không thể tự ý tiêm thuốc tại nhà.

Một số loại thuốc thuốc kháng sinh trị ho dạng tiêm thông dụng bao gồm: amoxicillin, roxithromycin… Người bệnh lưu ý, không phải trường hợp nào cũng có thể sử dụng thuốc kháng sinh trị ho nên cần cân nhắc trước khi dùng.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến ho là do người bệnh bị viêm họng. Thuốc kháng sinh trị ho đặc trị viêm họng giải quyết căn nguyên nguồn bệnh, giúp thuyên giảm triệu chứng ho chỉ sau vài giờ. Loại thuốc này đa số được bào chế dưới dạng thuốc nước hoặc viên ngậm với vị ngọt dễ uống.

Thuốc kháng sinh trị ho dạng này thường được kê đơn chung với các loại thuốc khác có tác dụng hỗ trợ cắt đứt cơn ho, ngăn ngừa tái phát.

Cũng giống như nhiều loại thuốc khác, thuốc kháng sinh trị ho cũng cần được sử dụng khi có hướng dẫn của bác sĩ. Tuyệt đối không nên sử dụng sai liều lượng do bác sĩ hoặc đơn thuốc đưa ra.

Gồm tất cả các loại thuốc kháng sinh trị ho làm thay đổi tính chất, đặc tính và độ bám dính của đờm trên bề mặt đường hô hấp. Tác dụng của thuốc là làm loãng đờm và hóa giáng đờm. Trong đó:

Thuốc kháng sinh trị ho làm loãng đờm: giúp tăng tiết dịch trên bề mặt đường hô hấp khiến đờm sẽ trở nên lỏng hơn. Một số loại thuốc kháng sinh trị ho như: guaifenesin, terpinhydrat, natribenzoat…

Thuốc kháng sinh trị ho hóa giáng đờm: tác dụng trực tiếp vào đờm, giúp đờm bớt đặc. Bao gồm các loại: ambroxol, acetylcysteine, carbocisteine, bromhexin…

Trong quá trình uống thuốc kháng sinh trị ho tác dụng trên đờm, người bệnh lưu ý nên uống nhiều nước hỗ trợ tác dụng của thuốc. Bên cạnh đó, khi uống thuốc cũng cần uống nhiều nước hơn bình thường.

Một số loại thuốc kháng sinh trị ho có thể kể đến như: codein, pholcodin, dextromethorphan…. Những loại thuốc này khi đưa vào cơ thể có tác dụng giảm đau và ức chế nhẹ trung tâm hô hấp.

Thuốc kháng histamin chủ yếu mang đến tác dụng an thần, giảm ho và làm dịu, dùng để trị ho khan do kích ứng, dị ứng. Bao gồm: diphenhydramine, chlorpheniramine, alimemazin…

Thông thường, những loại thuốc này được bào chế qua đường hít, ngậm và có hiệu quả khá tốt với những trường hợp chớm ho đến ho lâu ngày. Khi sử dụng, người bệnh cũng cần tuân theo chỉ định của bác sĩ và hướng dẫn trên vỏ hộp.

Lưu ý khi dùng thuốc điều trị ho

Người bệnh tuyệt đối không tự ý mua thuốc ho để điều trị. Mỗi dạng bệnh lý khác nhau cùng với nguyên nhân khác nhau sẽ cần dùng những loại thuốc khác nhau chính vì vậy chỉ có bác sĩ khám bệnh cho bạn mới hiểu tình trạng của bệnh nhân để kê thuốc.

Không dùng thuốc làm giảm ho trong trường hợp ho có đờm (trong bệnh viêm phế quản mạn, giãn phế quản) vì ho được coi như cơ chế bảo vệ có lợi, làm sạch đường thở.

Các loại thuốc điều trị ho đều có tác dụng phụ nhất định. Vì vậy cần cung cấp tiểu sử bệnh cho bác sĩ để tránh kê đơn thuốc sai, gây tác dụng phụ nặng nề với những người tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch vành, bệnh tuyến giáp, glaucom, u phì đại tuyến tiền liệt, người mang thai, trẻ em và người cao tuổi, người suy hô hấp, bệnh tim, tai biến mạch máu não.

Cần cân nhắc và thận trọng với các biệt dược như ameflu, atussin, tiffy… vì đó đều là những thuốc phối hợp từ 3 đến 5 chất, ngoài tác dụng phụ lại còn tương tác bất lợi với các thuốc khác dùng cùng lúc. Do vậy, người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ chỉ định của thầy thuốc.

Dùng đúng liều lượng chỉ định, không nên tăng liều dùng dần để tránh gây nhờn thuốc. Không tự ý ngưng thuốc khi chưa đủ liệu trình kê của bác sĩ vì các triệu chứng đã thuyên giảm mà dừng thuốc sẽ dễ khiến tình trạng ho tái phát.

Phương pháp từ thảo dược giúp giảm ho hiệu quả

Bạn đọc có thể tham khảo sử dụng Heviho nghiên cứu bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Đây là sản phẩm có nguồn gốc thảo dược, chứa S3-Elebosin chiết xuất từ Sâm đại hành được cấp bằng sáng chế về khả năng kháng viêm. Heviho mang đến 3 tác động toàn diện:

Giúp nhanh giảm các triệu chứng ho, đau rát họng, đờm, vướng cộm cổ họng…

Chứa S3-Elebosin chiết xuất từ Sâm đại hành giúp ngăn ngừa tận gốc phản ứng viêm, chống nhiễm khuẩn hầu họng.

Phục hồi các tổn thương niêm mạc họng, ngăn tái phát hiệu quả.

Heviho có 2 dạng bào chế phù hợp cho cả người lớn và trẻ em.

Người bị viêm họng cấp, viêm họng mạn tính (viêm họng hạt), viêm amidan, viêm V.A, viêm thanh quản, viêm phế quản cấp và mạn tính.

Người thường xuyên bị đau rát họng, ngứa họng, ho khan, ho có đờm dài ngày.

Theo khuyến cáo của Viện Hàn lâm, trường hợp người lớn bị viêm đường hô hấp mạn tính (ho đờm dai dẳng, viêm họng tái đi tái lại, họng dễ bị kích ứng…) nên dùng Heviho đủ liệu trình 2-3 tháng sẽ giúp phục hồi niêm mạc họng, ngăn ngừa tái phát rất tốt.

Viên uống Heviho dùng tốt cho những trường hợp:

Trẻ nhỏ và người lớn bị cảm, ho gió, ho khan, ho có đờm, ho khi thay đổi thời tiết.

Người hay bị đau rát họng, ngứa họng, viêm họng.

Trẻ mắc viêm V.A, viêm amidan cấp và mạn tính.

Siro Heviho dùng tốt cho những trường hợp: BẤM VÀO ĐÂY để tìm nhà thuốc bán chính hãng viên uống Heviho cho người lớn BẤM VÀO ĐÂY để tìm nhà thuốc bán chính hãng Siro Heviho cho trẻ nhỏ

Lạm Dụng Thuốc Ngủ Tây Y

Lạm dụng thuốc ngủ tây y gây hại cho sức khỏe của bạn như thế nào?

Các thuốc ngủ tây y phổ biến hiện nay

Mất ngủ là tình trạng giảm sút về thời gian, độ sâu hoặc hiệu quả hồi phục của giấc ngủ. Các thuốc ngủ tây y phổ biến hiện nay là:

Nhóm Barbiturat: Butalbital, Pentobarbital, Thiopental natri, Phenobarbital, Amobarbital, Primidone, Secobarbital,…

Nhóm Benzodiazepin: Diazepam, Alprazolam, Lorazepam, Bromazepam, Clonazepam, Oxazepam, Triazolam, Nitrazepam, Midazolam,…

Nhóm Nonbenzodiazepine: Zaleplon, Zopiclone, Zolpidem, Eszopiclone,…

Thuốc kháng histamin thế hệ cũ: Diphenhydramine, Doxylamine, Dimenhydrinate, Brompheniramine, Chlorpheniramine, Hydroxyzine,…

Tùy thuộc vào tình trạng bệnh mà bác sĩ sẽ kê cho bạn những loại thuốc ngủ khác nhau. Các loại thuốc tây y giúp bệnh nhân cải thiện tình trạng mất ngủ nhưng chỉ có tác dụng 1 phần. Tức là chúng giúp bạn dễ đi vào giấc ngủ, kéo dài thêm thời lượng giấc ngủ, nhưng lại chưa có tác động đến việc cải thiện chất lượng giấc ngủ.

Thuốc ngủ tây y tạo giấc ngủ ép gây mê mệt

Các thuốc ngủ tây y tạo giấc ngủ ép, giấc ngủ mê mệt, bạn thường có cảm giác đau đầu, choáng váng, mệt mỏi, không tỉnh táo vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều người vì muốn nhanh chóng ngủ lại được mà lạm dụng thuốc ngủ này, gây ra nhiều hậu quả khôn lường.

Việc lạm dụng thuốc ngủ tây y đang dần dần hủy hoại sức khỏe của bạn

Thuốc ngủ tây y gây ra rất nhiều tác dụng phụ như:

– Gây chóng mặt, mất thăng bằng, đau đầu, làm gia tăng nguy cơ tai nạn giao thông, vận hành máy móc,…

– Tăng cảm giác buồn ngủ vào ban ngày, mệt mỏi, không tập trung làm việc vào sáng ngày hôm sau.

– Các vấn đề về đường tiêu hóa, chẳng hạn như tiêu chảy và buồn nôn…

– Suy giảm trí nhớ.

Thuốc ngủ tây y khiến nhiều người mệt mỏi, buồn ngủ vào ban ngày

– Phản ứng dị ứng nghiêm trọng.

– Gây tương tác với nhiều loại thuốc khác.

– Gây hại gan, thận nên cần sử dụng thận trọng, đặc biệt trên những bệnh nhân suy giảm chức năng gan, thận.

Thuốc ngủ tây y làm suy giảm chức năng gan

Đặc biệt, việc lạm dụng thuốc ngủ tây y kéo dài sẽ gây ra tình trạng nhờn thuốc, lệ thuộc vào thuốc. Sau một thời gian sử dụng, bệnh nhân cần tăng liều hoặc đổi thuốc khác thì mới ngủ được, làm gia tăng nguy cơ gặp các tác dụng phụ, hủy hoại sức khỏe của bạn. Khi thiếu thuốc thì người bệnh không ngủ được, dừng thuốc đột ngột có thể gây mất ngủ trắng đêm.

Do đó, bạn cần tuyệt đối tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ, không được tự ý sử dụng thuốc ngủ tây y bừa bãi.

Nhận thấy nhiều bất lợi khi sử dụng thuốc ngủ tây y để điều trị mất ngủ, xu hướng hiện nay là sử dụng các biện pháp không dùng thuốc giúp khắc phục mất ngủ hiệu quả mà an toàn.

Biện pháp cải thiện giấc ngủ không dùng thuốc

Để cải thiện tình trạng khó ngủ, mất ngủ một cách an toàn, các bạn có thể áp dụng những biện pháp sau đây:

– Tạo thói quen đi ngủ và thức dậy đúng giờ hàng ngày, không thức khuya, tốt nhất nên đi ngủ trước 22 giờ.

– Giải tỏa căng thẳng, thư giãn tinh thần trước khi đi ngủ bằng cách đọc sách, nghe nhạc nhẹ, ngâm chân nước ấm, ngồi thiền…

Đọc sách trước khi đi ngủ giúp thư giãn tinh thần

– Tránh sử dụng các thiết bị điện tử như điện thoại, máy tính trước khi đi ngủ

– Hạn chế uống trà, cà phê, rượu và hút thuốc vào buổi tối.

– Xây dựng chế độ ăn uống khoa học, tăng cường bổ sung các loại rau xanh, trái cây và các loại hạt ngũ cốc trong các bữa ăn hàng ngày.

– Tập thể dục điều độ các bài tập cường độ nhẹ và vừa như tập yoga, đạp xe, đi bộ,… ít nhất 30 phút mỗi ngày.

Tập thể dục mỗi ngày giúp cải thiện giấc ngủ

– Sử dụng các sản phẩm từ thảo dược thiên nhiên, giúp cải thiện thời lượng và chất lượng giấc ngủ một cách trọn vẹn nhất. Sản phẩm đã và đang giúp hàng vạn người lấy lại được giấc ngủ sâu, ngon chính là BoniSleep + đến từ Mỹ.

BoniSleep + – Bí quyết giúp cải thiện mất ngủ từ thiên nhiên an toàn, hiệu quả

BoniSleep + – Bí quyết giúp cải thiện mất ngủ từ thiên nhiên an toàn, hiệu quả

BoniSleep + là sản phẩm được nhập khẩu nguyên lọ từ Mỹ, có công thức toàn diện với hơn 20 thành phần có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên nên vừa mang đến hiệu quả giúp cải thiện mất ngủ vượt trội vừa rất an toàn, không gây ra các tác dụng phụ như khi sử dụng thuốc tây y. Vì vậy, người bệnh hoàn toàn yên tâm khi sử dụng.

Các thành phần nổi bật trong viên uống BoniSleep + bao gồm:

Lactium chiết xuất từ sữa: Lactium tác động lên các thụ thể GABA -A của não bộ, giúp làm dịu những căng thẳng, lo âu, nuôi dưỡng hệ thần kinh, giúp bạn dễ ngủ, ngủ ngon, tinh thần thoải mái, tràn đầy năng lượng. Nghiên cứu của các nhà khoa học Soken Nhật Bản năm 2006 cho thấy lactium có tác dụng giúp cải thiện 66% giấc ngủ chỉ sau 4 tuần sử dụng.

Melatonin: Đây là hormone tự nhiên trong cơ thể, có tác dụng kiểm soát chu kỳ giấc ngủ, điều hòa nhịp sinh học của cơ thể, giúp tái tạo giấc ngủ sinh lý tự nhiên, sâu ngon, trọn vẹn.

Các dưỡng chất tự nhiên: GABA, 5-HTP, L-theanine từ lá chè giúp kích thích sản xuất trực tiếp các sóng não alpha, tạo ra trạng thái thư giãn sâu, làm dịu tình trạng căng thẳng, giúp ngủ ngon giấc hơn.

Các thảo dược quý: Cây nữ lang, hoa cúc, hoa bia, Ashwagandha, Rhodiola rosea, ngọc trai, lạc tiên có tác dụng giúp an thần, giảm bồn chồn, lo âu, giúp dễ ngủ, ngủ ngon giấc.

Hiệu quả giúp cải thiện giấc ngủ của BoniSleep + còn được tăng lên gấp nhiều lần khi sử dụng công nghệ bào chế microfluidizer – công nghệ siêu nano hiện đại bậc nhất thế giới, giúp hiệu quả hấp thu có thể lên tới 100%.

Với hiệu quả vượt trội, BoniSleep + đã xuất sắc vượt qua hàng ngàn những sản phẩm khác để nhận danh hiệu “Huy chương vàng vì sức khỏe cộng đồng” do chúng tôi Trần Đáng – Chủ tịch Hiệp hội thực phẩm chức năng Việt Nam trao tặng vào năm 2017.

Chị Đặng Thị Thu Thủy – 41 tuổi, thôn Ngọc Trúc, xã Minh Hoàng, huyện Phù Cừ, Hưng Yên, điện thoại 0984.673.011.

Chị Đặng Thị Thu Thủy – 41 tuổi

“Năm 2015, chị phát hiện mình bị bệnh đại tràng, thường xuyên đau bụng, ăn uống không ngon miệng. Chị lo lắng quá thành ra mất ngủ kéo dài , dẫn đến trầm cảm nặng. Mỗi đêm chị ngủ rất ít, thậm chí nhiều lần thức trắng luôn. Chị dùng nhiều loại thuốc tây trong 6-7 tháng nhưng hôm ngủ được, hôm chập chờn. Người chị lúc nào cũng mệt mỏi, bệnh đại tràng cũng vì thế mà không cải thiện nhiều.”

“Nhờ sản phẩm mà chị đã lấy lại được giấc ngủ sau bao nhiêu năm mất ngủ. Sau nửa tháng dùng BoniSleep +, giấc ngủ của chị bắt đầu được cải thiện. Chị ngủ ngon và sâu giấc 5-6 tiếng mỗi đêm. Sau 1 tháng, chị xin ý kiến của bác sĩ giảm dần liều thuốc tây y. Sau 3 tháng, chị đã không phải sử dụng thuốc tây nữa rồi mà vẫn ngủ được 7-8 tiếng/đêm. Sáng ngủ dậy, cơ thể chị khỏe khoắn, bệnh đại tràng cũng được cải thiện nhiều, đầu óc minh mẫn, da dẻ hồng hào. Chị mừng lắm!”

Anh Vũ Đức Hiệp 31 tuổi, ở số 102, tổ 9, Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Nội.

“Thất nghiệp, gánh nặng kinh tế gia đình khiến anh bị mất ngủ triền miên. Trong suốt 1 tháng, mỗi đêm anh chỉ ngủ được vài tiếng, nhiều hôm thức trắng đêm. Sáng dậy hai mắt thâm quầng, người mệt mỏi, thiếu sức sống. Anh đi khám, bác sĩ kê thuốc ngủ nhưng kèm theo là vô số lời cảnh báo về tác dụng phụ của thuốc như mệt mỏi, không tập trung, nhờn thuốc, đặc biệt là hại não.”

“Anh ra hiệu thuốc tây, mấy cô dược sĩ khuyên anh không nên dùng thuốc ngủ vì nhiều tác hại và giới thiệu cho anh sản phẩm BoniSleep + của Mỹ. Anh mua về uống trước khi đi ngủ, chỉ sau vài ngày, anh đã ngủ một mạch 7 tiếng đến sáng, sáng dậy đầu óc sảng khoái, minh mẫn lắm. Anh ngủ được, tinh thần phấn chấn nên đi phỏng vấn cũng thuận lợi hơn nhiều, liền một lúc có tới 3 công ty gọi anh đi làm. Thật may mắn vì anh gặp được sản phẩm BoniSleep +.”

Mời các bạn xem giấy phép của Bộ y tế TẠI ĐÂY

Đặt câu hỏi cho chuyên gia

Các Loại Thuốc Tây Y Và Đông Y Điều Trị Đau Lưng

Biệt dược: acesal, acylpyrin, aspro. 1stopyrin, polprin, empirin, rhodine, ruspirin…

Tác dụng: hạ nhiệt, giảm đau. Gần đây nhiều công trình đã xác nhận thuốc này tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu có hiệu quả nhất nên đã được sử dụng để phòng tai biến mạch máu não (nhồi máu não do huyết khối và nghẽn mạch máu não).

Chỉ định: đau, viêm các rễ – dây thần kinh trong hội chứng cổ – cánh tay, đau lưng và các dây thần kinh ngoại vi khác, đau đầu, đau viêm khớp, đau răng, cảm sốt.

Liều dùng: viên nén đơn thuần hoặc viên tổng hợp với thuốc khác, mỗi lần uống (lúc no) từ 300 – 500mg, tối đa trong 24 giờ có thể cho từ 2 – 3g (người lớn) chia uống cách quãng từ 3 – 4 tiếng trong 5 – 7 ngày.

Để dự phòng tai biến mạch máu não, tuỳ theo số lượng và chất lượng tiểu cầu, có thể dùng liều nhỏ từ 0,32g đến 0,50g một ngày trong từng đợt 2 – 3 tuần. Có thể dùng aspirin pH8 để giảm tác dụng phụ của aspirin.

– Mãn cảm với các salicylat: loét dạ dày – hành tá tràng, các rối loạn trong quá trình đông máu và hen.

– Tránh dùng phối hợp với corticoid (vì làm tăng khả năng gây tai biến chảy máu dạ dày), các thuốc trung hòa acid dịch vị như nhôm và magnésium hydroxyd, calcicarbonat và natri hydrocarbonat (vì làm giảm nồng độ aspirin ở máu).

Túc dụng phụ: rối loạn tiêu hoá như đầy bụng. buồn nôn, mẩn ngứa ngoài da, nổi mề đay, cơn hen, chóng mặt, ra nhiều mồ hôi.

– Thận trọng khi dùng cho phụ nữ có thai, nhất là 3 tháng cuối, vì có thể gây kéo dài thời gian thai nghén và lúc trở dạ đẻ dễ bị băng huyết nhiều hơn.

Nếu dùng đồng thời với các chất dẫn cumarin, cần lưu ý là tác dụng chống đông máu của các thuốc này được tăng lên.

Chỉ định: đau các dây thần kinh ngoại vi, đau thấp khớp, đau đầu, cảm cúm; cầm máu trong chảy máu cam, chảy máu chân răng.

Liêu dùng: người lớn mỗi lần uống 0,80g, mỗi ngày 2 – 3 lần chia đều khoảng cách thời gian trong ngày. Trẻ em, tuỳ theo tuổi, mỗi lần 0,05 – 0,25g, mỗi ngày 2 – 3 lần.

Tác dụng phụ: buồn nôn, nổi mẩn ngoài da.

Ghi chú: tránh dùng trong thời gian dài (quá 7 ngày) và thuốc có thể gây giảm bạch cầu hạt.

– Hiện nay còn dùng dưới dạng dẫn chất là propyphenazon (tức là isopropyl antipyrin) có dung nạp tốt hơn.

Aminophenazon (aminophenazonum)

Tên khác: amidopyrin, aminopyrin, amidazophen, dietyl amino antipyrin, pyramidon…

Biệt dược: amidophen, anafebrin, pyrzon.

Túc dụng: tương tự như phenazon nhưng giảm đau mạnh hơn.

Chỉ định: như đối với phenazon nhưng không dùng để cầm máu.

Liều dùng: người lớn mỗi lần uống 0.25g, mỗi ngày 3 – 4 lần. Hiện nay người ta ngại dùng thuốc này vì sợ gây mất bạch cầu hạt.

Biệt dược: algopyrin, bonpyrin, metapyrin, novalgm, novapyrin, pyralgn…

Túc dụng: tương tự như các thuốc trên. Ngoài tác dụng giảm đau, còn có tác dụng chống co thắt và chống thấp khớp

Chỉ định: cho tất cả các chứng đau do nguyên nhân khác nhau (đau thắt lưng, đau rễ – dây thần kinh, đau đầu. đau do sỏi thận, sỏi mật, co thắt dạ dày – ruột, niệu đạo, đau sau chấn thương, sau mổ, đau thấp khớp cấp hoặc mạn).

Liều dùng: người lớn, mỗi lần uống từ 0,25g đến 0,5g mỗi ngày từ 3 – 4 lần.

Chống chỉ định: mẫn cảm với các chất dẫn pyrazolon, có thai trong 3 tháng đầu. Tránh dùng kéo dài quá 10 ngày vì có thể gây giảm hoặc mất bạch cầu hạt.

Thường cho uống thuốc giảm đau vào những lúc no (vào bữa ăn, sau bữa ăn) với những liều nhỏ thăm dò lúc đầu và chia ra nhiều lần khoảng cách thời gian trong ngày.

Nếu các thuốc trên được chế dưới dạng tổng hợp cùng với các loại thuốc khác thì cần chú trọng tới liều lượng và những chống chỉ định của từng thành phần thuốc để chỉ định và điều chỉnh liều và cách dùng cho thích hợp với từng bệnh nhân.

Ở đây, nói chung các thuốc thường chỉ nêu lên liều cho người lớn, còn đối với trẻ em cần cân nhắc thận trọng. nếu cần thiết phải có chỉ định của chuyên khoa nhi.

4.1. Actron (hãng bào chế HBC: Miles, Thụy S1)

Thành phần (TP) mỗi viên có:

+ Acid acetylsalicylic 267mg

+ Paracetamol 133mg

+ Cafein 40mg

+ Natrl bicarbonic 1600mg

+ Acid citric anhydric 954mg

Tác dụng điều trị (TDĐT): đau đầu, đau nửa đầu, đau dây TK hông, đau thắt lưng, đau khớp.

– Liều lượng (LL): mỗi lần uống 1 viên, mỗi ngày 4 viên, không quá 8 viên/24 giờ.

– Chống chỉ định (CCĐ): như đối với aspirin.

+ Acid acetyl salicylic 0,32g

+ Phosphate monocalcic 0,20g

+ Carbonat acide de sodium 1,90g

+ Acide citric 1,05g

– TDĐT: giống như aspirin, giảm đau có hiệu lực tốt, tác dụng nhanh, được lót đệm niêm mạc dạ dày tốt.

– LL: 1-9 viên một lần, không dùng quá 12 viên trong 24 giờ.

4.3. Algo Névriton (HBC: Spret Manchant, Pháp)

– TP mỗi viên có:

+ Acid aeetyll salievlie (đạng cốm có ethyl cellulose) U,35g

+ Acetiamin hay chlorhydrate de diacetylthiamn 0.05g.

– TDĐT: như aspirin, giảm được 30% lượng aspirin nhưng vẫn có kết quả điều trị tốt.

– LL: như các thuốc có aspirin kể trên.

+ Aspirin 400mg

+ Cafein 30mg

– TDĐT: như aspirin.

– LL: uống mỗi lần từ 1 – 2 viên, mỗi ngày từ 3 – 4 viên.

Ngoài ra còn có một loại nữa, có thành phần hóa học không giống loại trên, có tên là anacin 3; TP mỗi viên có:

Acetaminophen 500mg Cafein 32mg

+ TDĐT: giảm đau và hạ nhiệt như aspirin, nhưng không ảnh hưởng tới niêm mạc dạ dày, không gây mẫn cảm đối với máu.

+ LL: người lớn: uống mỗi lần từ 1 – 2 viên, mỗi ngày từ 1 đến 4 lần.

+ Trẻ 6 – 11 tuổi: mỗi lần 1/2 – 1 viên, mỗi ngày từ 1 đến 4 lần.

+ Trẻ 12 – 15 tuổi: mỗi lần từ 1 – 1 viên rưỡi, mỗi ngày từ 1 đến 4 lần.

+ Không dùng cho trẻ nhỏ dưới 6 tuổi.

+ CCĐ: không dùng cho người bệnh suy tế bào gan.

4.5. Analginum (analgin) (HBC: CHLB Nga, Bungar)).

– Công thức: 1 – phenyl -2,3-dimethyl -4-methylamino pyrazolon 56 – N.

Methan sulfonat natrium: noramidopyrin.

– TDĐT: giảm đau, hạ nhiệt, chống viêm, tác dụng như amidopyrin; hoà tan rất tốt, hấp thụ dễ dàng, tác dụng nhanh, mạnh (nếu dùng theo đường tiêm).

Các chứng đau nhức: đau đầu, đau dây TK, đau cơ, đau khớp.

– CCĐ: bệnh máu, rối loạn kinh nguyệt, thai nghén, thể tạng không chịu thuốc; không dùng khi bệnh khớp đang tiến triển nặng.

– Tác dụng phụ (TDP): giảm bạch cầu, mất bạch cầu đa nhân, rét run, ban đa, chóng mặt.

– LL: uống viên 0,50g một lần, 2 – 3 lần mỗi ngày. Tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch, dưới da: dung dịch 50%, 2ml mỗi lần, ngày 2 – 3 lần.

+ Hàm lượng muối 2mEq

+ Tá dược (cellullose vi tinh thể, povidon, bột talc, stéara Mg, hydroxyméthylcellulose, polyoxyéthylène glycol, r cam S, oxyde titan, alcool éthylique).

Ngoài ra còn có loại thuốc viên, dạng 375mg.

– Tính chất: chống viêm không steroid, thuộc nhóm các propionic, dẫn xuất của acide aryl-carboxylic, có hoạt tính chống viêm, chống đau và hạ sốt.

+ Điều trị triệu chứng lâu đài: viêm thấp khớp mạn tính (viêm đa khớp, viêm cứng khớp đốt sống).

+ Vài chứng thoái khớp bất trị và đau nhức: thấp khớp các chi (đau nhức vai nặng, viêm gân…), thoái hóa khớp, thoái hoá cột sống.

– Chống chỉ định:

+ Mẫn cảm với naproxene và các loại kháng viêm có hiệu quả tương tự như naproxene, mẫn cảm với aspirin.

+ Loét dạ dày – tá tràng, suy gan nặng, suy thận nặng.

+ Không được dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai, phụ nữ đang cho con bú.

+ Đối với người lớn tuổi, lái xe và người sử dụng máy móc.

+ Do tương tác thuốc nên không được phốt hợp với một số thuốc sau: heparin, các sulfamid giảm glucose huyết, methotrexat, các thuốc lợi tiểu, các thuốc chống cao huyết áp, hydantoin, ticlopidin và không nên phối hợp với các loại kháng viêm không stéroid khác.

– Cách dùng (đường uống):

+ Liều tấn công: viên 550mg, uống 2 viên/ngày chia làm 2 lần (sáng, tối), sau bữa ăn (lúc no).

+ Liêu duy trì lâu dài: 1 viên 550mg/ngày chia làm 2 lần (sáng, tối) lúc no.

+ Uống thuốc (không nhai); không vượt quá 1375mgl/ngày.

+ Khi có xuất hiện đau vùng dạ dày thì phải ngừng thuốc.

+ Thuốc có thể gây tác dụng phụ khác: ban da, phù Quincke, hen, nhức đầu, chóng mặt, ù tai, rối loạn thị giác, mất ngủ, vàng da, giảm bạch cầu hạt, giảm tiểu cầu, thiếu máu tán huyết. Do vậy cần theo dõi, nếu điều trị dài ngày cần làm các xét nghiệm cần thiết định kỳ.

4.7. Arthrocine 100 – 200 (HBC: – MSD Chilbret (Pháp) – MSD (Mỹ, Thụy Điển).

Tân khác: clinoril

– TP có hai loại:

+ Arthrocine 100mg (viên).

+ Arthrocine 200mg (viên hoặc thuốc đạn).

+ Là loại thuốc chống viêm không steroid, thuộc nhóm inden nên cũng mang tính chất giảm đau và hạ nhiệt.

+ Ức chế prostaglandin synthetase là nguồn gốc hoạt tính của thuốc chống viêm không steroid.

+ Làm dịu viêm và giảm đau nhức nhanh, là loại thuốc dễ dung nạp nên có thể dùng kéo dài.

– Chỉ định: hư khớp, viêm bao hoạt dịch, viêm gân, viêm bao tenon hoạt dịch (tenosynovit), viêm đa khớp dạng thấp, viêm đốt sống dính khớp.

– Chống chỉ định:

+ Với bệnh nhân đã dị ứng với sulindac, với aspirin, và với thuốc chống viêm khác không phải steroid, nhất là biểu hiện dưới dạng hen suyễn.

+ Có tiền sử chảy máu dạ dày-ruột, viêm loét dạ dày – tá tràng.

+ Không dùng cho khoa nhi, không dùng cho người có thai và trong thời kỳ cho con bú.

+ Thận trọng khi dùng thuốc đạn đối với những người bị viêm và chảy máu trực tràng.

– Tác dụng phụ: khi dùng thuốc này, trong 3 tháng đầu ở một vài người có thể bị vàng da do viêm gan có kèm sốt hay không, các rối loạn sẽ bớt dần khi ngừng thuốc.

– Khó tiêu, buồn nôn, chán ăn, ỉa chảy, táo bón, đau do co thắt dạ dày.

– Mn ngứa, da khô, kích thích niêm mạc, rụng tóc, ban đỏ đa dạng, hội chứng Stevens – Johnson.

– Choáng váng, nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, tăng tiết mồ hôi, dị cảm, viêm dây thần kinh, viêm màng não vô khuẩn, trầm cảm, rối loạn tâm thần.

– Giảm thính lực, ù tai, giảm thị lực (nhìn mờ….). người bệnh suy tim kém, có thể xuất hiện: hồng cầu giảm, bạch cầu giảm, chảy máu cam, chảy máu dưới da.

– LL: uống với nước hay kết hợp với thức ăn, mỗi ngày từ 200 – 400mg chia làm 2 lần, không dùng quá 400mg/ngày. Viên thuốc hình lục giác, màu vàng dễ bẻ.

+ Aspirin 300mg

+ Maalox (magnesium-aluminium hydroxid) 150mg.

– TDĐT: như aspirin nhưng không gây khó chịu dạ dày.

4.9. Brufen 400 (HBC: Boots – Dacour, Pháp)

– TP mỗi viên: viên màu hồng có ibuprofen 400mg.

– TDĐT: các chứng viêm, đau nhức khớp, đau dây TK hông, đau cơ.

– LL: uống mỗi lần 1 – 2 viên, mỗi ngày từ 4 – 6 viên.

– CCĐ: không dùng trong thời kỳ thai nghén và trẻ em; không dùng cho những người có tiền sử co thắt phế quản gây ra bởi aspirin, loét dạ dày – tá tràng, suy thận, suy gan.

+ Aluminium glycesnat 48,6mg

+ Magnésium carBonat 97,2mg

– TDĐT: đau đầu, đau dây thần kinh, đau cơ khớp.

– LL: 9 viên mỗi 4 giờ, không quá 12 viên trong 24 giờ.

4.11. Cerbutid 100 (HBC: Boots – Dacour, Pháp)

– TP mỗi viên: acid 3-(2fluoro 4-biphényly]) propionique furbiprofen… 100mg

– TDĐT: bệnh khớp, viêm khớp chậu – cột sống, hư khớp, viêm cứng cột sống, đau thắt lưng.

– LL: uống mỗi lần 1 viên, mỗi ngày 3 lần rồi giảm xuống tới 200mg, 150mg một ngày.

– CCĐ: không dùng cho phụ nữ thời kỳ thai nghén, phụ nữ cho con bú, và trẻ em; người có tiền sử loét dạ dày – tá tràng, người quá nhạy cảm với acid acetylsalicylic và indometacm co thắt phế quản.

+ Acetaminophen 325mg

+ Phenylpropanolamin 12,5mg

+ Chlorphenylamin Maleate 1mg Dextromethophan HBr 10mg

– TDĐT: giảm đau nhanh và an toàn, đau đầu, đau mình, kháng histamin

– LL: 9 đến 10 viên nang trong 24 giờ, chia làm nhiều lần.

– CCĐ: nhạy cảm với acetaminophen hay chất kháng histamin.

Thận trọng: vì thuốc làm chóng mặt, nên không dùng cho lái xe, chạy máy.

4.13. Di – Antalvic (HBC: Houdé, Pháp)

– TP: (công thức): Viên nang Thuốc đạn (Người lớn)

+ Dextropropoxyphene chlorhydrat 30mg 150mg

+ Paracetamol : 400mg 450mg

– TDĐT: Do liên kết 2 thứ nên hiệu lực chắc chắn, rất nhanh (15 phút) kéo dài và gấp đôi tác dụng hạ nhiệt của một số thuốc đã được xác định, hơn hẳn các salicylat. Paracetamol là chất chuyển hóa hoạt động của phenacctin, không có tác dụng phụ.

Điều trị: các loại đau nhức cấp, mạn về thần kinh, khớp hay ung thư với nguồn gốc khác nhau.

– LL: Viên nang: uống mỗi lần từ 1 – 2 viên, mỗi ngày từ 4 – 6 viên vào bữa ăn.

Thuốc đạn: 2 thuốc trong 24 giờ.

– TDP: nôn, buồn nôn, chóng mặt, táo bón. Hiếm thấy: nổi ban da, đau dạ dày.

– CCPĐ: là thuốc độc bảng A/ theo dược điển Pháp.

Không dùng cho trẻ em dưới 15 tuổi và những người bị suy gan, viêm gan.

Chú ý: không dùng liều kéo dài, thuốc đạn gây loét trực tràng (dùng không quá 10 ngày) phải theo dõi chức năng thận, khi đang dùng thuốc tránh đồ uống có rượu. Thuốc gây buồn ngủ nên thận trọng khi dùng cho những lái xe và sử dụng xe máy.

– Biệt dược cùng loại:

+ Dibencozide (coenzym B12) 20mg

+ Chất bảo quản (mercurothilate sodique) 0,04mg

+ Dung môi (để pha khi dùng) 2 ml

– TDĐT: các chứng đau nhức thần kinh (đau đầu, đau mật…), hội chứng cổ – vai cánh tay, viêm nhiều dây thần kinh, zona, viêm dây TK thị giác hậu nhãn cầu do nhiễm độc.

– LL: tiêm bắp hay tĩnh mạch 1 lọ một ngày trong 3 – 4 ngày, sau đó 1 lọ mỗi 3 – 4 ngày.

4.15. Dispril (HBC: Rickett-Colonm, CHLB Đức)

– TP mỗi viên có:

+ Acid acetyl salicylic 0,30g

+ Calci carbonat 0,09g

+ Acid citric sice 0,03g

– TDĐT: đau đầu, đau nhiều cơ, dây thần kinh, đau mình mẩy do sốt. Thuốc tác dụng nhanh, hiệu lực tốt, đã được lót đệm niêm mạc dạ dày.

– LL: 1 đến 3 viên trong 24 giờ, chia làm nhiều lần.

+ Dibencozid anhydre 20mg

+ Mercurothialate sodique 0,04mg

+ Mannitol 100 mg

+ Ống dung môi để pha thuốc đông khô khi dùng 2ml

– TDĐT: chống các chứng đau nhức thần kinh.

– LL: tiêm bắp thịt hay tĩnh mạch 1 lọ một ngày, trong 10 – 12 ngày.

4.17. Duperan (viêm 150 mg) (HBC: Cassene, Pháp)

– TP: clometacin hay acid 2 methyl – 3p – chloroben – zoyl – 6 – methoxy indolyl (1) acétique.

– TDĐT: giảm đau ngoại vi, ít bị ảnh hưởng niêm mạc dạ dày.

– LL: mỗi lần uống 1 – 2 viên, mỗi ngày (24 giờ) từ 3 – 4 viên. 4.18. Excedrin Extra – Strength (HBC: Bristoì – Meyers, Mỹ)

– TP mỗi viên có:

+ Acetaminophen 250mg

+ Aspirin 250mg

+ Cafein 65mg

– TDĐT: giảm đau nhanh trong các chứng đau đầu, đau cơ, đau dây TK, đau nhiều khớp, đau răng, viêm xoang mạn.

– LL: 9 viên 94h, khi cần có thể 1 – 2 viên mỗi 4 giờ.

4.19. Ildara (HBC: Diamant, S.A., Pháp)

– TP mỗi viên: floctafenin 200mg

– TDĐT: chống các loại đau cấp và mạn về thần kinh, khớp, đau đầu và các đau có nguồn gốc khác.

Chất dung nạp bởi niêm mạc dạ dày.

– LL: uống mỗi lần 1 viên và từ 3 – 3 viên trong 24 giờ.

– TDP: dễ bị dị ứng da, niêm mạc.

TDĐT: là loại kháng viêm không steroid điều trị các viêm đa khớp, đốt sống, viêm màng bao hoạt dịch, viêm bao khớp vai, bong gân, đau gần, đau thắt lưng.

– LL: uống mỗi lần 1 viên, mỗi ngày 3 – 3 lần. có thể cho tới 150mg một ngày, trường hợp cấp cho 200mg một ngày.

Đau thắt lưng nặng: mỗi lần 9 viên, mỗi ngày từ 2 – 3 lần, tới 150mg một ngày uống lúc no.

– TDP: rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, chóng mặt.

– CC: không được dùng cho những người có bệnh loét dạ dày – tá tràng, đang thai nghén, cho con bú và trẻ em.

Không dùng cho người có tiền sử quá mẫn cảm đối với acid salicylic (aspirin) hay với indometacin. Phải ngừng thuốc ngay khi có dấu hiệu chảy máu đường tiêu hóa. Nếu dùng thuốc lâu dài thì phải kiểm tra mắt định kỳ.

+ Acid acetylsalicylic 450mg

+ Cabonate de calcium 135mg

– TDĐT: như các thuốc có aspirin, thuốc này đã được đệm lót niêm mạc dạ dày.

– LL: 1 đến 2 viên một lần, từ 3 đến 5 lần mỗi ngày.

4.22. Lyomethyl (HBC: E Bouchara, Pháp)

– TP mỗi chai đông khô có: mecobalamin anhydre (khan) mg.

– TP ống dung dịch có: hydroxocobalamin base anhydre (khan) 5mg.

– TDĐT: giảm đau trong các chứng viêm, đau rễ – dây thần kinh trong hội chứng đau thắt lưng (đau dây thần kinh hông…) và các loại đau rễ – dây thần kinh cổ – cánh tay.

LL: tiêm bắp thịt mỗi ngày từ 1 đến 2 ống trong 20 ngày.

4.23. Meprilon (HBC: Daiichi Seiyaku, Nhật)

– TP mỗi viên: mepirizol 100mg

– TDĐT: giảm đau, chống viêm, hạ nhiệt trong các chứng đau lưng, đau cổ – cánh tay và các loại đau dây – rễ TK khác.

– LL: mỗi lần 1 viên, mỗi ngày từ 2 – 4 viên (24 giờ).

– TDĐT: các loại đau trong hội chứng đau thắt lưng (viêm rễ – dây TK, thoái hóa cột sống, đau dây chằng, viêm gân); giảm đau trong phẫu thuật, răng, chấn thương, cơn đau quặn tử cung sau đẻ.

– LL: mỗi lần 1 viên, mỗi ngày từ 3 – 4 viên (lần đầu có thể cho 9 viên); trường hợp cần thiết, có thể cho 6 viên một ngày. Uống vào bữa ăn sau khi hòa vào một ly nước.

– TDP: đôi khi nhức đầu, buồn nôn, buồn ngủ. nổi mẩn ngứa, đau dạ dày – ruột.

– CC: dị ứng với thuốc và với aspirin, loét dạ dày – tá tràng, suy gan, thận. phụ nữ trong thời kỳ thai nghén và đang cho con bú.

Không dùng cho trẻ em dưới 10 tuổi. Thuốc bảng C/Pháp.

4.25. Nisidina (HBC: Institut de Algeli Milano, Ý).

– TP từng dạng thuốc có Viên Ông tiềm

+ Metamizol 500mg 300mg

+ Adiphenin HC] 25mg 25mg

+ Diphenhydramin HCI 12,/5mg 125mg

+ Diethyl-amino-ethyl-diphenyl 2,5mg 25mg

(Acetate d’ethvle HCL)

– TDĐT: giảm đau, chống co thắt, điều trị các loại đau dây TK, đau cơ, đau khớp, đau đầu.

– LL:uống mỗi lần 1 viên, từ 4 – 6 viên trong 24 giờ; tiêm bắp thịt từ 1/2 ống đến 1 ống mỗi lần, từ 2 – 3 lần trong 24 giờ.

– CĐ: viêm, loét đường tiêu hóa, co thắt tim, loạn thể tạng máu, Glaucome, phì đại tuyến tiền liệt; những người nhạy cảm với pirazolin, chất kháng histamin, chất kháng tiết cholin.

– TDĐT: giảm đau, hạ nhiệt trong các chứng đau dây TK (đau dây TẾ hông, đau các rễ – dây và đám rối TK cổ – cánh tay), đau nửa đầu, đau khớp.

– LL: mỗi lần 1 viên, mỗi ngày từ 4 đến 6 viên.

– CĐ: có tiền sử dị ứng với pyrazol (chủ vếu với amidopyrin, noramidopyrin).

Cấm dùng cho những người có chứng mất bạch cầu và trẻ nhỏ dưới 6 tuổi.

– Thận trọng: dùng cho những người bệnh máu, nếu dùng phải kiểm tra huyết đồ.

Coi chừng: noramidopyrin có thể gây chứng mất bạch cầu hạt, chết người (thuốc độc bảng A theo dược điên Pháp).

– Thuốc cùng loại có tên khác: Analgin (Bungarl) và pyrethane a la noramidopyrin (HBC: Fison, Pháp).

– TP mỗi viên có:

+ Acid acetylsalicylic 200mg

+ Paracetamol 200mg

+ Cafein B0mg

+ Bromdiaethylacetylcarbamide 30mg

+ Bromisovaleriancarbamide 10mg

+ Codein phosphat 10mg

– TDĐT: các loại đau cấp và mạn: đau nửa đầu, đau đầu, đau dây TK hông to và các đau dây TK khác, đau răng, đau sau phẫu thuật.

– LL: nuốt (không nhai) 1 đến 2 viên mỗi lần, mỗi ngày từ 1 đến 2 lần.

4.28. Rhonal (HBC: Specia, Pháp)

– TP mỗi viên có:

+ Aeid acetvl salievlie 500mg

+ Đã được bọc lớp mỏng ethylcellulose

– TDĐT: như aspirin (giảm đau, chống viêm, hạ nhiệt, chống ngưng kết tiểu cầu) nên hiện nay đang được sử dụng đề phòng tai biến mạch máu não (huyết khối, thiếu máu não…).

CCĐ: như aspirin. Không dùng trong rong kinh vì aspirin có nguy cơ làm tăng chảy máu. Aspirin có thể làm kéo dài chuyển dạ đẻ.

– LL: nuốt viên thuốc, đừng nghiền nát viên thuốc. không uống với nước nóng, mỗi lần từ 1 đến 2 viên, từ 2 đến 6 viên ngây.

4.29. Rigetamin (HBC: Remedia – Richeter, Hungari)

– Công thức: Tartrat d’Ergotamin 1mg

– TDĐT: dự phòng và điều trị cơn đau nửa đầu, các loại đau đầu căn nguyên mạch khác.

+ CC: rối loạn tuần hoàn ngoại vi, các chứng mạch vành, tăng huyết áp, rối loạn gan thận, viêm mạch, huyết khối, mang thai, nhiễm khuẩn.

+ LL: (người lớn): khi có dấu hiệu báo cơn đau nửa đầu, lập tức đặt ngay một viên dưới lưỡi để tan từ từ, không dùng quá 3 viên một ngày, thường tối đa mỗi tháng khoảng 12 viên. Trẻ em 7 đến 14 tuổi: từ 1⁄4 – 1/2 viên mỗi lần, từ 1 đến 2 lần một ngày, đặt dưới lưỡi, không cho quá 1mg một ngày.

+ Aminophenazon 150mg

+ Phenacetin 300mg

+ Cafein 50mg

– TDĐT: là những chất tác dụng giảm đau, hạ nhiệt. Riêng cafein có tác dụng kích thích thần kinh trung ương và tim, lợi tiểu, được kết hợp với các chất giảm đau để tránh tác dụng trầm cảm của chúng.

Điều trị đau đầu, đau dây TK, đau khớp, đau răng.

– LL: mỗi lần uống 1 viên, từ 1 đến 3 lần mỗi ngày.

– CCPĐ: cấm tuyệt đối sử dụng cho những người có chứng mất bạch cầu hạt.

– Thận trọng: cần theo dõi bạch cầu trong máu và aminophenazon (amidopyrin) có thể gây chứng mất bạch cầu hạt chết người.

4.31. Synacthene refard (tetracosactide-zinc) (HBC: Ciba, Pháp).

– TP mỗi ống 1ml có:

+ Béta 1 – 24 tetracosactid 1mg

– TDĐT: các cơn kịch phát viêm nhức các khớp, viêm động mạch thái dương, đau các dây TK (TK hông, sườn, tay, đùi), phù não, liệt mặt, hội chứng Guillain – Barré, xơ tủy rác, viêm não cấp tính, nhược cơ năng.

– LL: tiêm bắp 1 ống. cần cho uống kết hợp kali, kiêng mặn.

– TDĐT: đau dây thần kinh mặt và dây thần kinh ngoại vi khác, động kinh.

– LL: viêm 900mg, uống từ 1 – 3 viên trong 24 giờ, chia nhiều lần.

4.33. Terneurine H.5000 (HBC: Allard S.A., Pháp)

– TP mỗi lọ thuốc đông khô:

+ Vitamine B1 5LImE

+ Vitamine B6 25Dmg

+ Vitamine B12 (hvdroxocobalamin) 5000mcE

– TDĐT: các loại đau, viêm dây TẾ ngoại vi.

– LL: 1 lọ tiêm bắp một ngày trong 7 đến 10 ngày: khi dùng pha với một ống dung môi 5ml (trong đó có natrium acetat 60mg, cồn benzylie 50mg và nước cất vừa đủ 5m]).

– LL: uống 1 đến 2 viên trong 24 giờ, chia làm 2 lần.

– Tiêm bắp hay tĩnh mạch: 1 đến 2 ống trong 24 giờ.

-Trình bày: viên 100 mg, ống 100mg – 2ml

– Chỉ định: là loại kháng viêm không stéroid, có các chỉ định sau:

+ Điều trị triệu chứng các bệnh lý viêm và thoái hóa gây đau của hệ thống cơ xương: viêm khớp dạng thấp, thoái hóa khớp, viêm đốt sống cứng khớp.

+ Các bệnh ngoài khớp: viêm gân cơ, viêm bao hoạt dịch, viêm quanh khớp vai (hội chứng vai – bàn tay), quanh khớp háng, căng và bong gân, bệnh gút cấp tính.

– Chống chỉ định:

+ Mẫn cảm với thuốc.

+ Các chứng suyễn, viêm mũi, nổi mề đay khi dùng salicylat hoặc các thuốc kháng viêm không steroid khác.

+ Viêm loét dạ dày – hành tá tràng.

+ Cũng như các thuốc kháng viêm không steroid khác, tileotil không nên cho trước khi mổ hoặc trước khi gây tê, mê đối với bệnh nhân già. Bệnh nhân có nguy cơ suy thận hoặc chảy máu.

+ Nên tránh sử dụng chung với salicylat hoặc các thuốc kháng viêm không steroid khác.

+ Tránh điều trị đồng thời với các thuốc kháng đông hoặc các thuốc trị đái đường đang uống, trừ khi bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ.

+ Cần theo dõi chức năng thận khi dùng thuốc kháng viêm không steroid trên bệnh nhân già hoặc khi bệnh nhân có nguy cơ bị suy thận.

+ Cần thận đối với phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

Uống 20mg một lần duy nhất vào thời điểm cố định mỗi ngày. Dạng thuốc tiêm được sử dụng 1 đến 2 ngày.

Trong cơn gút cấp: liều khởi đầu 40mg (2 viên uống hoặc 2 viên thuốc đạn đặt hậu môn) một lần mỗi ngày trong 3 ngày, trong 5 ngày kế tiếp dùng 20mg một lần mỗi ngày.

– Hiệu quả điều trị (đã được chứng minh bằng các công trình nghiên cứu như sau): tỷ lệ điều trị tốt và rất tốt trong các bệnh thấp ngoài khớp, đỡ hơn nhiều hoặc rất nhiều trong các bệnh viêm xương khớp, cải thiện rõ trong viêm khớp dạng thấp và viêm đốt sống cứng khớp. Các kết quả điều trị này tốt hơn hắn khi nghiên cứu so sánh với một số thuốc như: diclofenac retard 100mg, Indometacin 75mg và piroxicam 20mg.

Đây là loại thuốc mới nhập nên ở trong nước chưa có công trình nghiên cứu và thực tế chứng minh cân được thận trọng khi sử dụng với những chỉ định chặt chẽ.

4.36. Trancogesis (HBC: Winthrop, Pháp)

– TP mỗi viên có:

+ Acid acetyl salieylie 300mg

+ Chlormézanone 100mg – TDĐT: đau đầu, đau các dây thần kinh ngoại vi.

– CCĐ: như aspirin, không dùng cho người đang lái xe máy vì thuốc gây buồn ngủ.

– LL: mỗi lần từ 1 – 2 viên, mỗi ngày từ 3 – 6 viên.

4.37. Treo (HBC: Leo, Thụy Điển)

– TP mỗi viên (viên sủi bọt) có:

+ Acide acetyl salicylic 0,50g

+ Cafein 0,05g

– TDĐT: đau đầu, đau các dây thần kinh ngoại vi. đau cơ khớp, thấp khớp, sốt do cảm lạnh.

– LL: người lớn: 1 đến 2 viên một lần, từ 1 – 3 lần mỗi ngày.

Trẻ em: 8 – 14 tuổi: 1 viêm mỗi lần, 1 – 3 lần một ngày; 3 – 7 tuổi: 1/2 viên mỗi lần, 1 – 3 lần một ngày.

Vì là viên sủi bọt, nên cho hòa tan thuốc với nước thành dung dịch có hơi (gas) nhẹ, sẽ làm cho dễ uống và tác dụng điều trị nhanh.

– CCĐ: như đối với aspirin.

+ Atasol và atasol 8 (HBC: Horne, Canada)

+ Datril (HBC: Bristol Meyers, Mỹ)

+ Doliprane (HBC: Frosst, Canada)

+ K-Nol (HBC: Kmart, Co., Mỹ)

+ Panadol (HBC: Winthrop, Mỹ)

– Công thức: paracetamol (hay acetaminophen) viên nén 325mg hoặc viên nang 500mg.

– TDĐT: chủ yếu làm giảm đau và hạ nhiệt.

Thuốc có đặc tính: không có ảnh hưởng tới niêm mạc dạ dày nên có thể dùng cho những người có chứng rối loạn tiêu hóa (viêm thực quản, dạ dày – ruột…), không ảnh hưởng tới mẫn cảm và có thể dùng theo các liều trị liệu chung thuốc kháng vitamin K mà không tăng đáng kể các tác dụng chống đông máu.

– Chỉ định: đau đầu và các chứng đau nhức khác (thần kinh khớp).

– Thận trọng: khi dùng cần theo dõi chức năng trong những trường hợp dùng dài ngày.

– Tác dụng phụ (hiếm): nổi ban đa, mề đay nhẹ. Nếu sử dụng đúng chỉ định, Tylenol thường dễ dung nạp trong phần lớn các người bệnh.

+ Viên nang: người lớn mỗi lần 1 – 9 viên, từ 1 – 4 lần một ngày, không dùng quá 6 viên nang trong 24 giờ.

+ Viên nén: người lớn, từ 1 – 2 viên một lần. tư 1 – 4 lần một ngày: trẻ 6 – 11 tuổi: mỗi lần 1/2 viên đến 1 viên. từ 1 – 4 lần một ngày; trẻ 19 – 1ã tuổi: từ 1 – 1 viên rưỡi mốt lẫn, từ 1 – 4 lần một ngày.

Nói chung các lần uống cách nhau ít nhất là 4 giờ.

– CCĐ: không dùng cho người bệnh suy tế bào gan và trẻ dưới 6 tuổi. 4.39. Voltaren (HBC: Ciba-Geligy, Pháp)

– TP thuốc có: diclofenac muối Na hay muối Na của acid N-(2,6 dichlorophenyl) – O-amino phenyl acetic, được trình bày dưới dạng thuốc:

+ Viên bọc vàng: chịu được dịch vị dạ dày, viên 25mg.

+ Viên bọc nâu sáng: chịu được dịch vị dạ dày, viên 50mg.

+ Thuốc đạn 100mg.

– TDĐT: là chất kháng viêm không steroid, có tác dụng điều trị các chứng bệnh sau

+ Bệnh lý đĩa đệm cột sống: đau thắt lưng, đau rễ – đây TK hông, rễ – dây TK cổ – cánh tay.

+ Viêm cứng khớp đốt sống.

+ Viêm da khớp dạng thấp.

+ Thấp khớp ngoài khớp: viêm quanh khớp vai-cánh tay.

+ Thấp khớp thoái hóa, viêm thấp khớp do các tính chất khác nhau.

+ Hư khớp: háng, đốt sống, thắt lưng, cổ, gối.

+ Các tình trạng viêm và phù nề sau chấn thương TMH và răng miệng.

– LL: liều tấn công 150mg mỗi ngày, chia đều mỗi lần một viên ban ngày kết hợp với một thuốc đạn vào buổi tối lúc đi ngủ.

– Liều duy trì: từ 75 đến 100 mg mỗi ngày.

– Thời gian uống: vào bữa ăn hay sau bữa ăn.

– TDP: buồn nôn, tiêu chảy đau thượng vị (vài ngày sau sẽ hết), chóng mặt nhẹ, nhức đầu (rất hiếm).

Có thể gây tăng rất ít transamiase sinh học.

– CCĐ: loét, viêm dạ dày – tá tràng, hen, nổi mề đay, viêm mũi dị ứng.

– Coi chừng: vì thuốc có thể làm giảm đề kháng cơ thể nên phải dùng thuốc chống nhiễm khuẩn trước hoặc kết hợp.

D. CÁC THUỐC THƯ GIÃN CƠ TÁC DỤNG CHỦ YẾU TRÊN HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG VÀ NGOẠI VỊ

(Theo G8. Jadaaki Mano, M.D., Nagoya University, Japan)

+ Tetrazepam biệt được (bđ)là myolastan

+ Clonazepam (bd. rivotril)

+ Diazepam (bd. valium)

– Carisoprodol (bd. flexartal)

– Chlophenesin carbamat

Chlorproethazm (bd. neuriplège) Chlormezanon (bd. alinam) Chlorzoxanone

Methocarbamol (bd. lumirelax) Tolperison HCL (bd. mydocalm) Eperizon HCL (bd. myonal) Phenprobamat (bd. diaflexol) Baclofen (bd. lioresal)

Tizanidin hydroclorid (bd. sirdalud)

Succinylcholine chlorido Dantrolen sodium (bd. dantrium) Thiocolchicosid (bd. coltramyl) Idrocilamid (bd. brolitène, srilane)

Quinin benzoat (bd. hexaquine)

Các loại thuốc thư giãn cơ kể trên có tác dụng điều trị cho trạng thái co cứng cơ nói chung, nên khi sử dụng cần cân nhắc để chọn lọc loại thuốc nào phù hợp với nguyên nhân gây co cứng cơ với tác dụng chủ yếu của từng loại thuốc trên đặc điểm bệnh lý của từng bệnh nhân.

Trên thị trường thuốc hiện nay không có đủ các loại thuốc thư giãn cơ kể trên. Theo kinh nghiệm, chúng tôi thường sử dụng cho trạng thái co cứng cơ của nhóm bệnh vùng cổ vai và đau lưng do đĩa đệm cột sống các loại thuốc giãn cơ như: myolastan, liorésal, sirdalud, décontractyl, coltramyll.

Hội chứng và bệnh nhược cơ

– Giai đoạn tiền TBMMN: cần có dự phòng ban đầu để tránh nguy cơ tai biến.

– Giai đoạn sau TBMMN lần đầu: cần phải dự phòng tái phát tai biến.

Aspimn được Holiman phát minh năm 1829, là acid acetylsalieylie có tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu và đã đưa vào sử dụng để dự phòng hậu quả của bệnh tim – mạch từ 1953. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về cơ chế tác dụng của aspirin.

Một mặt, aspirin ức chế hoàn toàn theo một chiều (không quay trở lại) hoạt động của men cycllooxygenase, cũng hủy bỏ sản sinh ra thromboxan A2 (TX-A2) trong các tiểu cầu. Chính TX-A2 gây cảm ứng ngưng kết tiểu cầu và co khít mạch máu.

Mặt khác, aspirin làm giảm sản sinh ra prostacvcln (PGI2) bởi thành mạch máu. Chính PG12 lại ức chế ngưng kết tiểu cầu và gãy cảm ứng giãn mạch máu.

Do hoạt động chống ngưng kết mà aspirin có hiệu lực chống ngưng kết tiểu cầu trong dự phòng tai biến mạch máu não do thiếu cục bộ mà còn tác dụng chống viêm và chống oxy hóa. Aspirin được hấp thụ nhanh trong ống tiêu hóa với nồng độ trong huyết tương cao nhất là 15 – 20 phút sau khi uống và hiệu lực chống ngưng kết được phát huy sau khi uống.

Tác dụng của aspirin có hiệu quả trong dự phòng ban đầu hay trong dự phòng tái phát TBMMN là một vấn đề thu hút của nhiều tác giả trên thế giới trong hơn chục năm gần đây.

Hàng loạt các công trình nghiên cứu khá công phu của nhiều nước đã được công bố. Ở Mỹ, Hiệp hội thầy thuốc nội khoa (1989) đã có những công trình nghiên cứu đặc biệt: 22.071 thầy thuốc đã nghiên cứu, dùng aspirin với liều 325mg/ngày, đã thu được kết quả là giảm được rủi ro về bệnh tim – mạch 44%, còn tỷ lệ tăng rủi ro TBMMN là không đáng kể (trước đó, một số tác giả cho rằng dùng aspirin trong dự phòng sẽ gây tăng tỷ lệ TBMMN thể chảy máu não.

Ở Anh (1988), công trình nghiên cứu của 5.130 thầy thuốc đã dùng aspirin liều 500mg/ngày nhận thấy tỷ lệ TBMMN thể chảy máu tăng lên, còn đối với thể TBMMN thiếu máu cục bộ thì ở mức độ hạn chế. Năm 1994, có hai công trình nghiên cứu phối hợp, đã thu được kết quả là aspirin làm tăng TBMMN với tỷ lệ không có ý nghĩa thống kê là 13 – 21%.

Một công trình nghiên cứu khác (Hansson L, Zanchettl A,… 1998), dựa trên đối tượng 20.000 bệnh nhân tăng huyết áp, dùng aspirin liều 75mg/ngày, đã chứng minh là tác dụng ưu việt làm giảm tỷ lệ nhồi máu cơ tim, nhưng lại không có tác dụng đối với nguy cơ TBMMN.

Một công trình hợp tác nghiên cứu được công bố gần đây nhất (1994), phân tích trên 145 nghiên cứu với 51.144 bệnh nhân, đã chứng minh rằng aspirin đã làm giảm nguy cơ tái phát TBMMN tới 25%.

Dùng aspirin với liều nào thích hợp nhất? Các nghiên cứu với liều thấp (dưới 30mg/ngày), với liều mạnh (500mg – 1500mg/ngày) và cả với các liều trung bình (1200mg/ngày, 283mg/ngày) trên hàng nghìn bệnh nhân, được theo dõi nhiều năm, đã được công bố. Sự tổng hợp – phân tích các kết quả nghiên cứu trên của tổ chức hợp tác nghiên cứu đã đi đến kết luận cuối cùng rằng: liều aspirin từ 160mg tới 325mg/ngày là có hiệu quả nhất để dự phòng tái phát TBMMN. Cho tới nay, người ta ưa dùng aspirin với liều 325mg/ngày.

2.2. Dipyridamol Dipyridamol (CDP) ức chế chức năng tiểu cầu theo ba cơ chế chủ yếu sau:

– CDP ức chế các men phosphodiesterase trong các tiểu cầu, dẫn đến tăng AMPc (adenosin monophosphat) tiểu cầu và từ đó tảng cường khả năng chống ngưng kết của PG13 (prostacyclin).

– Kích thích trực tiếp nội mô mạch máu giải phóng PG12.

Ức chế sự hấp thu và chuyển hóa của adenosin mà chính nồng độ adenosin thường tăng ở ngang mức của liên bề mặt giữa tiêu câu và nội mô mạch máu.

Thời gian gần đây, Hội thảo nghiên cứu về dự phòng đột quỵ của châu u lần thứ hai đã công bố kết quả nghiên cứu mới nhất về tác dụng ưu việt của dipyridamol trong dự phòng tái phát tai biến mạch máu não. Cuộc Hội thảo này bao gồm hàng loạt các công trình nghiên cứu với nhiều phác đồ so sánh khác nhau, bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học, khách quan dựa trên đối tượng nghiên cứu 6602 bệnh nhân mắc tai biến mạch máu não hay cơn thiếu máu cục bộ não tạm thời.

Phác đồ phối hợp aspirin với dipyridamol đã làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não là 37%, trong khi đó nhóm dùng aspirin đơn độc chỉ là 18,1%, và nhóm dùng dipyridamol đơn độc là 16,3%. Liều lượng của mỗi thứ thuốc trong phác đồ phối hợp là: aspirin 50mg/ngày và dipyridamol 400mg/ngày.

Các nghiên cứu của một số tác giả khác cũng xác định so sánh dùng đơn độc aspirin và dipyridamol cũng đều nhận thấy aspirin có hiệu lực dự phòng giảm nguy cơ tai biến mạch máu não tới 25%, còn đối với dipyridamol thì kém hơn.

Cơ chế tác dụng của hydrochlorid tielopidin là ức chế ngưng kết tiểu cầu đã được phát hiện từ những năm đầu 1970. Mặc dầu cơ chế chưa được làm sáng tỏ như aspirin nhưng người ta cho rằng ticlopidin ức chế có chọn lọc sự hoạt hóa của thụ cảm thể ñbrinogen của tiểu cầu, chẹn adenosin diphosphat (ADP) mà chính là chất quy kết (gây cảm ứng) sự hoạt hóa của thụ cảm thể này hay thụ cảm thể glycoprotein Hb/IIla. Cho tới nay cơ chế phân tử chính xác, mà từ đó ticlopidin gây chẹn ADP, vẫn chưa được chứng minh.

Công trình nghiên cứu so sánh tác dụng của aspirin với ticlopidin của các tác giả Anh (Hass WK, Cun. L., 1989) trên 3069 bệnh nhân thiếu máu não cục bộ, tạm thời hay TBMMN nhẹ bằng liều lượng aspirin 1300mg/ngày và ticlopidin 250mg/ngày uống làm 2 lần. Bệnh nhân được theo dõi tới 5 đến 8 năm. Kết quả nghiên cứu chứng tỏ là tielopidin đã làm giảm tới 21% tỷ lệ tai biến mạch máu não nguy hại (rất nặng) và không nguy hại tới 3 năm.

Công trình nghiên cứu kết hợp Canada – Mỹ của các tác giả Gent M., Blakely K.A… (1989), dựa trên đối tượng 1072 bệnh nhân tai biến mạch máu nặng, với liều lượng ticlopidin hai lần 250mg một ngày. Kết quả thu được là: tử vong 15,3%/năm do nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não đối với nhóm đối chứng placebo, còn đối với nhóm dùng ticlopidin là 10,8%.

Nhưng tác dụng phụ của ticlopidin lại rất nghiêm trọng, thường xảy ra trong 3 tháng sau khi bắt đầu dùng ticlopidin những rối loạn về máu: giảm bạch cầu nghiêm trọng 0,8 – 0,9% bệnh nhân, ban xuất huyết, giảm tiểu cầu với tỷ lệ tử vong có thể tới 33%.

Clopidogrel là một dẫn chất mới của họ các thienopyridin, mà về hóa học nó có vị trí gần gũi với ticlopidin và đã được đưa vào sử dụng lần đầu tiên vào năm 1987.

Clopidogrel chẹn sự hoạt hóa của các tiểu cầu bởi ADP: từ đó, clopidogrel ức chế có chọn lọc và theo một chiều (không quay trở lại) sự liên kết giữa ADP với thụ cảm thể của chính nó trên các tiểu cầu và glveoprotein Hb/I1la. dẫn tới ức chế sự liên kết thụ cảm thể này với fibrinogen.

Tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu của clopidogrel có hiệu lực hơn tielopidin: một liều độc nhất 7mg/ngày cũng có hiệu quả bằng 250mg x 2 lắn/ngày ticlopidin. Hơn nữa, clopidogrel lại không có tác dụng phụ về huyết học thường gặp như khi dùng ticlopidin.

Về tác dụng trên lâm sàng của clopidogrel đã có công trình nghiên cứu lớn của CAPRIE steering committee công bố năm 1996 (công trình nghiên cứu đa quốc gia), dựa trên đối tượng đã bị tai biến mạch máu não, thiếu máu não cục bộ trên 19.185 bệnh nhân với liều 75mg/ngày so sánh với aspirin 325mg/ngày, được theo dõi trong 3 năm. Kết quả nghiên cứu này đã công nhận kết quả nghiên cứu về aspirin và ticlopidin của các tác giả kể trên… Tác dụng phụ của hai nhóm dùng aspirin và clopidogrel nói chung không có gì khác biệt, đều không có tác dụng phụ về máu như ticlopidin.

Tóm lại: clopidogrel có thể dùng thay thế ticlopidin, đặc biệt hàng đầu chỉ định đối với những trường hợp nặng có nguy cơ tái phát cao, nhưng giá tiền lại quá cao so với aspirin.

2.5. Các chất đối kháng GPHb/IIIa

Từ khi sự chẹn glycoprotein Hb/llla được coi như con đường cuối cùng chung cho các chất đối kháng tiểu cầu, đã có nhiều nghiên cứu chỉ xác định được ưu việt của chất này đối với bệnh tim – mạch. Phác đồ phối hợp aspirin với một chất đối kháng GPHb/IHa theo đường tiêm đã làm hạ tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim không nguy hại, với hiệu quả hơn hẳn so với dùng aspirin đơn độc.

Nhưng đối với dự phòng tái phát tai biến mạch máu não của các chất đối kháng GPHb/IHa thì cho tới nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Gần đây, có một nghiên cứu mới nhất do các tác giả Adam HP, Bogousslavsky (2000) đã chứng minh rằng abeiximab là một mảnh kháng thể dòng vô tính đơn (anticorps monoelonal) có khả năng chỉ đạo chống lại GPHb/IIIa một cách “an toàn” trong giai đoạn cấp tai biến mạch máu não (đột qụy thiếu máu cục bộ não).

3. Kết luận

Về dự phòng tai biến mạch máu não bằng các loại thuốc chống ngưng kết tiểu cầu, từ những kết quả nghiên cứu nhiều mặt, khá công phu, đáng tin cậy của nhiều tổ chức, trung tâm nghiên cứu của nhiều nước trên thế giới, cho tới thời điểm cuối năm 2000, có thể kết luận:

Cho tới nay, không có chỉ định dùng aspirin để dự phòng tai biến mạch máu não ban đầu khi người bệnh chưa một lần bị tai biến đó. Chính aspirin lại có hại làm tăng tỷ lệ bệnh mới mắc tai biến mạch máu não thể chảy máu.

– Aspirin: là thuốc chống ngưng kết tiểu cầu được sử dụng nhiều nhất, mặc dầu với hiệu quả khiêm tốn là giảm nguy cơ tái phát tai biến mạch máu não 25%. Liều lượng tối ưu của aspirin còn chưa được quy định nghiêm ngặt, nhưng với liều 325mg/ngày là thích hợp hơn cả.

– Dipyridamol: có tác dụng hiệp đồng với aspirin nhưng những mặt lợi của phác đồ phối hợp này cũng còn phải chờ ở những nghiên cứu trong tương lai.

– Ticlopidin: là thienopyridin đầu tiên tỏ ra có hiệu lực hơn aspirin trong dự phòng tái phát tai biến mạch máu não ở những bệnh nhân bị cơn thiếu máu não cục bộ tạm thời, tai biến mạch máu não nhẹ và nặng. Vì ticlopidin gây tác dụng phụ nặng nề về máu nên không được sử dụng mà phải nhường chỗ cho elopidogrel.

– Cloptdogrel: là thienopyridin mới đã được chứng minh là có hiệu quả hơn aspirin. Clopidogrel được sử dụng thay thế tielopidin trong những trường hợp không dung nạp aspirin hay tai biến mạch máu não khi dùng aspirin.

– Các chất đối kháng GPHb (Illa: là một hướng nghiên cứu mới và có hy vọng, nhưng cần phải đợi những công trình nghiên cứu lâm sàng đầu tiên trong dự phòng tái phát tai biến mạch máu não.

– Trong tương lai: phác đồ phối hợp aspirin với clopidogrel có thể là đề tài nghiên cứu mới hứa hẹn trong tương lai về dự phòng tai biến mạch máu não.

3.3. Trong thực hành lâm sàng

Nói chung, phần lớn các loại thuốc trên đều ít nhiều tác động đến hệ tim – mạch và huyết. học, nên cần chú trọng đến chỉ định sử dụng, nhất là những chống chỉ định của từng loại thuốc.

Hiện nay, từng loại thuốc có nhiều biệt dược với những tên và hàm lượng khác nhau.

– Dipyridamoi:

+ Coronarin (Pháp), viên nén bọc 75mg

+ Natyl, persanin (Pháp) curantyl (Đức) anginal, antistenocardin, v.v… có viên bọc đường 25mg và 75mg.

Chống chỉ định:

+ Giảm huyết áp sau nhồi máu cơ tim, mẫn cảm với thuốc.

+ Sốc, trụy tim mạch, suy tim nặng nếu dùng thuốc tiêm.

Hiện nay aspirin được bào chế dưới nhiều dạng với các hàm lượng khác nhau (500mg, 325mg, 100mg…): để dự phòng tai biến mạch máu não, hiện nay người ta ưa dùng aspirin pH8 với hàm lượng 325mg/viên.

Chống chỉ định:

+ Bệnh nhân có thể tạng dễ xuất huyết, các chứng bệnh gây xuất huyết.

+ Mẫn cảm với dẫn chất salicylic.

+ Tiền sử chảy máu dạ dày – ruột.

+ Phụ nữ có thai 3 tháng cuối.

– Ticlopidin hydroclorid:

+ Biệt dược: ticlid (Pháp), viên nén 250mg.

+ Chống chỉ định:

” Tai biến mạch máu não thể chảy máu.

” Tạng dễ chảy máu như: loét dạ dày – ruột tiến triển…

‹ Bệnh về máu, kèm thời gian đông máu kéo dài, giảm bạch cầu và tiểu cầu, mất bạch cầu hạt.

” Tiền sử mẫn cảm với thuốc này.

Điều Trị Bệnh Trĩ Bằng Tây Y

Thắt trĩ bằng vòng cao su đã được thực hiện từ thế kỷ 19 nhưng vì cột búi trĩ chung với cả da quanh hậu môn nên sau thắt rất đau, cho nên không được sử dụng rộng rãi. Đến năm 1958 Blaisdell đã thành công với việc chỉ cột búi trĩ không có lẫn da và các mô chung quanh. Barron 1963 đã tạo ra dụng cụ để thắt trĩ với vòng cao su và sau đó với dụng cụ cải tiến của Mc Giveny đã đưa điều trị thắt trĩ với vòng cao su thành một phương pháp điều trị trĩ thành công và được lựa chọn hàng đầu trong các phương pháp điều trị bằng thủ thuật.

Nguyên tắc chính của thắt vòng cao su là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc, do đó sẽ cố định ống hậu môn đúng với nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn.

3. Liệu pháp làm đông bằng tia hồng ngoại (từ 1979 do Neiger mô tả):

Đốt điện với máy đốt hai cực, hoặc đốt điện với máy đốt một cực hay dòng điện trực tiếp, liệu pháp đông lạnh, cắt cơ thắt trong, cột mạch trĩ qua siêu âm DOPPLER. Phương thức sử dụng nhiệt điều trị trĩ đã được thực hiện hàng trăm năm nay. Mục tiêu của phương pháp làm đông là làm cho mô bị đông lại bởi tác động của sức nóng, tạo nên sẹo xơ làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định trĩ vào ống hậu môn. Với tia Laser, dòng điện cao tần cũng có tác động làm đông như tia hồng ngoại, nhưng sự chính xác về độ sâu xuyên thấu của tác động làm đông của 2 phương pháp này không chính xác bằng tia hồng ngoại với máy quang đông. Sự xuyên thấu mô của tia hồng ngoại được định trước bằng cách điều chỉnh tốc độ của tia và độ hội tụ chính xác trên lớp mô này. Máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng cụ điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hoà nhịp tim.

Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2. Phương pháp này có ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả nhưng có nhược điểm là máy khá đắt và thường phải làm thủ thuật nhiều lần.

Điểm lợi của các phương pháp này là làm không đau, bệnh nhân có thể về nhà trong thời gian ngắn, nhưng có điểm yếu là rất dễ tái phát.

4. Phương pháp điều trị trĩ bằng hệ thống ULTROID

Phương pháp điều trị có hiệu quả áp dụng từ năm 1876 (trên Thế giới) và năm 1995 (tại Việt Nam)

ULTROID SYSTEM: là một thủ thuật dùng máy phát với điện cực tác động vào gốc búi trĩ, làm búi trĩ teo đi do mất nguồn máu nuôi dưỡng

Nguyên lý hoạt động: dùng một dòng vi điện (nhờ máy phát điện ULTROID) tạo nên một phản ứng hóa học tác động trong mô trĩ làm giảm hoặc giới hạn sự phồng to của búi trĩ.

– Không phẫu thuật;

– Không gây mê;

– Không đau, bệnh nhân trở lại trạng thái bình thường sau thời gian ngắn hoặc ngay khi làm xong thủ thuật;

– Thực hiện nhanh, dễ dàng và có thể làm ngay tại phòng khám.

Là phương pháp tốt đối với trĩ độ I, độ II nhẹ, nhưng không có hiệu quả với trĩ ngoại, trĩ nội độ II nặng, độ III, độ IV, trĩ hỗn hợp và trĩ vòng.

Phương pháp điều trị bệnh trĩ bằng điện cao tần được thực hiện bằng cách ứng dụng dòng điện cao tần (bằng máy ZZIID) tác động vào búi trĩ, sinh ra nội nhiệt làm protein của mạch máu trong búi trĩ đông lại, từ đó búi trĩ sẽ tự chết.

Phương pháp điều trị này có thời gian thực hiện nhanh, ít đau và chóng lành hơn hẳn so với các biện pháp khác đã được ứng dụng tại Việt Nam. Đây là kỹ thuật an toàn, với tỷ lệ khỏi bệnh cao mà người bệnh đỡ đau hơn và ít biến chứng hơn so với việc phẫu thuật, dùng tia laser hoặc tia hồng ngoại, và có khả năng điều trị dứt điểm các loại trĩ nội, trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp, viêm ngứa hậu môn, kể cả trĩ nội đã đến thời kỳ nghiêm trọng.

Theo bác sĩ Nguyễn Mạnh Nhâm, Trưởng khoa Hậu môn – Trực tràng của Bệnh viện đa khoa tư nhân Tràng An, Hà Nội – nơi đang ứng dụng hiệu quả phương pháp điều trị này, sau nửa năm áp dụng, trong số 50 bệnh nhân bị bệnh trĩ nặng được điều trị bằng phương pháp mới này, 46 bệnh nhân đạt kết quả tốt (chiếm 92%), chỉ có 4 bệnh nhân đạt kết quả trung bình, không có trường hợp nào bị thất bại. Ngoài ra, qua tái khám sau ba tháng điều trị chưa thấy bệnh nhân nào tái phát.

Trĩ có thể là bệnh, có thể là triệu chứng của một bệnh khác. Chỉ được phẫu thuật khi là trĩ bệnh. Một sai lầm thường mắc phải là cắt trĩ cho một bệnh nhân bị ung thư trực tràng. Có thể trĩ là triệu chứng của ung thư trực tràng, có thể là ung thư trực tràng xuất hiện trên một bệnh nhân có trĩ đã lâu. Vì vậy, trước khi phẫu thuật phải khẳng định không có các thương tổn thực thể khác ở vùng hậu môn trực tràng.

Trĩ có thể điều trị khỏi bằng nội khoa hay các phương pháp vật lý. Vì vậy, phẫu thuật chỉ nên được xem là phương sách cuối cùng khi các phương pháp kể trên không hiệu quả, bởi vì phẫu thuật can thiệp vào giải phẫu học và sinh lý học bình thường và có thể kèm theo các di chứng nặng nề khó sửa chữa.

Chỉ định phẫu thuật thường chỉ áp dụng cho trĩ nội độ 3, độ 4, trĩ có huyết khối, trĩ vòng sa và trĩ xuất huyết trầm trọng.

Trước khi phẫu thuật trĩ, người bệnh cần loại trừ các loại bệnh sau đây, để phẫu thuật hoặc tiêm thuốc có hiệu quả hơn:

– Viêm trực tràng: Niêm mạc trực tràng bị thối rữa, chảy máu, không sạch sẽ, sau khi đại tiện phân có mủ, máu.

– Viêm kết tràng mãn tính: Biểu hiện thường thấy của bệnh này là vùng bụng bị, đi phân lỏng hoặc trong phân có mủ, máu, nếu trực tràng bị xơ cứng thì niêm mạc bị thối rữa, ra máu dày đặc hoặc bị lở loét.

– Ung thư trực tràng: Biểu hiện thường thấy của bệnh này là đại tiện ra máu, hình dạng phân thay đổi, niêm mạc có khô cứng, ở trực tràng có thể nhìn thấy u hoặc bề mặt bị lở loét, cứng khi tiếp xúc bị chảy máu.

– Vùng hậu môn có mụn: Do vùng hậu môn bị viêm mạn tính nên khi đại tiện do vi khuẩn xâm nhập sinh ra mụn, mụn mọc thường có màu trắng xám, có cuống tương đối dài.

– Bệnh lậu: Bộ phận hậu môn bị ngứa, thậm chí bị đau, có mủ. Thực nghiệm quan sát cho thấy, vùng hậu môn có cầu khuẩn lậu hoạt động. Bệnh này chủ yếu lây nhiễm qua đường tình dục.

– Hậu môn bị u: Xung quanh bộ phận hậu môn mọc dần lên các khối u có hình bông cải, chúng mọc liền với nhau thành một khối u, cũng có thể tồn tại độc lập, còn ở niêm mạc là các lông tơ, có giới hạn rõ ràng với vùng da xung quanh. Người mắc loại bệnh này thường là do vệ sinh không sạch sẽ bộ phận hậu môn.

Vì vậy, trước khi phẫu thuật trĩ, người bệnh trĩ phải chẩn đoán kỹ, để tránh trong quá trình phẫu thuật do chẩn đoán nhầm mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Với các phát hiện về sinh bệnh học và giải phẫu học, từ thập niên 90 có các phương pháp phẫu thuật mới như khâu treo trĩ, phẫu thuật Longo, khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler. Các phương pháp phẫu thuật mới này dựa trên nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn, giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định mô trĩ vào ống hậu môn. Với các phương pháp phẫu thuật sau này, vùng phẫu thuật nằm trên cột Morgagni, là vùng không có các tiếp nhận cảm giác, do đó khi phẫu thuật vùng này có lợi điểm là không đau.

a- Nhóm phẫu thuật 1: gồm 2 nhóm phẫu thuật:

– Phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc:

Phẫu thuật Whitehead: nguyên tắc là cắt khoanh niêm mạc và lớp dưới niêm mạc có các búi tĩnh mạch trĩ, sau đó kéo niêm mạc từ trên xuống khâu với da ở hậu môn. Phương pháp này hiện nay hầu như không được sử dụng vì để lại nhiều biến chứng nặng nề như hẹp hậu môn, đại tiện mất tự chủ và rỉ dịch ở hậu môn. Nhưng vì tính chất triệt để của phẫu thuật nên nhiều tác giả vẫn sử dụng nguyên tắc của phẫu thuật này nhưng cải biên lại để làm giảm các biến chứng; ví dụ phẫu thuật Toupet.

– Phẫu thuật cắt từng búi trĩ:

Nguyên tắc phẫu thuật này là cắt riêng biệt từng búi trĩ một, để lại ở giữa các búi trĩ các mảnh đa-niêm mạc (cầu da niêm mạc). Nhóm phẫu thuật này gồm có PT Milligan Morgan (1937), PT Ferguson (1959), PT Parks (1965), PT BV Việt Đức (Nguyễn Đình Hồi, 1966).

Nhóm phẫu thuật này gồm 2 nhóm chính là:

– Cắt trĩ mở: PT Milligan Morgan, PT Nguyễn Đình Hối.

Nhóm phẫu thuật này tránh được các biến chứng của nhóm phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc da, nhưng vẫn còn nhược điểm là đau sau mổ, thời gian nằm viện dài, thời gian trở lại lao động muộn và không hiệu quả trong các trường hợp trĩ vòng.

– PT Longo (1998):

Là phẫu thuật sử dụng máy khâu vòng để cắt một khoanh niêm mạc trên đường lược 2-3 em và khâu vòng bằng máy bấm. Nguyên tắc của phẫu thuật này là cắt và khâu khoanh niêm mạc, nhằm mục đích giảm lưu lượng máu đến đám rối tĩnh mạch trĩ để thu nhỏ thể tích trĩ và treo được đệm hậu môn vào ống hậu môn. Phương pháp này được ưa chuộng vì không đau, thời gian nằm viện ngắn, trả bệnh nhân về lao động sớm, nhược điểm này là chi phí cao, chưa được đánh giá đầy đủ về hiệu quả do thời gian theo dõi còn ngắn.

Chỉ định: Nguyên lý

Phẫu thuật chỉ theo phương pháp Longo dựa trên nguyên lý những dụng cụ cắt nối, cắt bớt phần niêm mạc trĩ sa. Sau đó kéo nối búi trĩ trở lại vị trí bình thường. Búi trĩ sẽ dần co nhỏ lại và khỏi.

Vết cắt nối thực hiện trên đường lược, vùng này không có thần kinh cảm giác, do đó bệnh nhân ít đau, ít chảy máu, và có thể đại tiện được sau mổ (một điều mà bác sĩ và bệnh nhân rất ngại sau mổ).

Thời gian gây tê, gây mê ngắn (khoảng 15 phút).

Không có vết cắt ở hậu môn, giữ được sinh lý bình thường, chỉ tức nhẹ vùng hậu môn sau mổ một ngày.

– Khâu treo trĩ bằng tay:

Đây là phương pháp cải biên của phẫu thuật Longo ở các nước đang phát triển do giá thành cao của PT Longo. PT này đã được Ahmed M Hussein, Nguyễn Mạnh Nhâm, Nguyễn Trung Vinh, Nguyễn Trung Tín báo cáo ở các hội nghị. Phương pháp này cũng dựa trên nguyên tắc của phẫu thuật Longo là làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ để thu nhỏ thể tích khối trĩ và treo búi trĩ lên ống hậu môn bằng các mũi khâu tay khâu xếp nếp niêm mạc trên đường lược 2-3cm. Phương pháp này chỉ mới được báo cáo sau năm 2001.

– Khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler:

Phương pháp này được Kazumasa Morinaga thực hiện lần đầu năm 1995, với một dụng cụ có tên là Moricorn, là một máy gồm một đầu dò siêu âm Doppler gắn liền trong một ống soi hậu môn, qua dụng cụ này tác giả đò tìm 6 động mạch, là những nhánh tận của động mạch trực tràng trên, và các nhánh động mạch này được khâu cột ở vị trí trên đường lược 2cm.

Nguyên tắc của phương pháp này là làm giảm lưu lượng máu đến các búi trl, chỉ áp dụng cho trĩ nội độ 2 và 3, ưu điểm của phương pháp này là không đau và bảo tồn được đệm hậu môn.

Cả ba phương pháp này không giải quyết được các trường hợp trĩ nội tắc mạch và các trường hợp có mẫu da thừa lớn.

Phẫu thuật hay thủ thuật không phải là kết luận cuối cùng mà chỉ là một mắt xích trong phác đồ tổng thể. Bởi vì sau đó còn một việc cực kỳ hệ trọng là phục hồi chức năng hậu môn và điều trị ngăn chặn tái phát. Các sản phẩm có nguồn gốc thảo dược thiên nhiên sẽ rất phù hợp để dùng cho bệnh nhân sau phẫu thuật trĩ với mục đích như trên.

Là phương pháp dễ thực hiện, đơn giản, nhanh chóng và an toàn. Tuy nhiên, người thực hiện thủ thuật phải là bác sĩ có kinh nghiệm với kỹ thuật vững vàng mới cho kết quả tốt và tránh được các biến chứng. Mục đích chính của chích xơ là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc giúp giảm triệu chứng chảy máu.

Chích xơ được chỉ định trong trĩ độ 1 và trĩ độ 2.

Trong kỹ thuật chích xơ cần chú ý một số VIỆC:

– Sử dụng đúng loại kim: Kim dài, có ngạnh chặn ở gần đầu kim để tránh xuyên thấu sâu, nếu có kim gập góc thì rất tốt, ống chích chuyên dùng. Thuốc chích xơ thường dùng hiện nay là đầu phenol và polidocanol.

– Vị trí chích là ở gốc búi trĩ, nằm trên đường lược và ở đáy búi trĩ. Khối lượng thuốc bơm khoảng 3-5 ml, bơm chậm, trong lúc bơm thuốc nếu thấy chỗ chích đổi màu trắng là chích vào lớp thượng bì, ngừng chích ngay vì sẽ gây biến chứng loét hoại tử sau chích. VỊ trí chích thông thường là ở 4 giờ, 7 giờ và 11 giờ.

– Chảy máu chỗ chích: nếu phát hiện trong lúc chích dùng gạc đè vào, nếu không giảm dùng dụng cụ thắt trĩ bằng vòng cao su thắt vùng chảy máu.

– Chích vào tuyến tiền liệt: trong trường hợp chích quá sâu ở vị trí 11 giờ – 1 giờ có thể gặp biến chứng bí tiểu, viêm mào tinh và tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt, rò hậu môn âm đạo…

Hiện nay, phương pháp chích xơ búi trĩ được nhiều cơ sở y tế trong cả nước thực hiện với những loại thuốc và các kỹ thuật chích xơ khác nhau.

Từ những năm 80 của thế ký XX, trong khuôn khổ hợp tác với các tổ chức Quốc tế, Bệnh viện Việt Tiệp – Hải Phòng với sự tham gia trực tiếp của chuyên gia người Pháp đã triển khai phương pháp tiêm xơ các búi trĩ để điều trị các bệnh trĩ nội, các loại bệnh trĩ gây chảy máu với kết quả tốt. Tuy nhiên đối trĩ nội đã nặng và sa niêm mạc, trĩ ngoại hoặc trĩ hỗn hợp, trĩ vòng, vì lo sợ bệnh nhân bị đau đón do tiêm hoặc gặp các biến chứng khác như chảy máu sau tiêm, trĩ sa nên không được chỉ định. Thường chỉ định sử dụng các biện pháp thắt, cắt hay mổ song từ mỗi phương pháp cũng đều có thể gặp những bất cập khác nhau.

Qua nghiên cứu về giải phẫu ống hậu môn ở người bị bệnh trĩ người ta thấy rằng: búi trĩ giãn phông lên, đẩy niêm mạc giãn theo, nếu cứ duy trì áp lực cao ở vùng ống (như người mắc đại tràng mãn, phụ nữ mang thai v.v…) sẽ làm các búi trĩ ngày càng to lên, có một khoảng cách giữa phần cơ, đám rối mạch máu và niêm mạc là mất độ co. Giai đoạn đầu những búi trĩ căng máu bị vỡ chảy máu tươi khi đi đại tiện, nhưng giai đoạn sau, niêm mạc và những búi trĩ giãn dài sa xuống qua lỗ ngoài ống hậu môn to dần, lùi xùi, tím sẫm. Việc giãn như vậy phần lớn sẽ tạo thành túi da rìa hậu môn, rất khó có thể co hết lên được khi đã giãn rộng và bị đọng dịch.

Trên cơ sở đó, việc tiêm thuốc gây xơ trực tiếp vào búi trĩ và vùng quanh các búi trĩ có tác dụng rất tốt đối với mọi trường hợp trĩ nội, ngoại khi đang bị chảy máu, thuốc lan tỏa tới tận các nhánh nhỏ của đám trĩ đang giãn mỏng có tác dụng làm xơ thành mạch ở mức độ cho phép. Ngoài tác dụng làm xơ búi trĩ nó còn có tác dụng làm viêm xơ niêm mạc, tạo sự kết dính trở lại giữa ba phần cơ, mạch máu và niêm mạc, làm mất đi tình trạng căng thẳng, dễ vỡ khi có áp lực nhưng vẫn có khả năng bảo tồn sự lưu thông mạch máu như chức năng sinh lý của hệ tĩnh mạch vùng ống hậu môn. Đây là một ưu điểm vượt trội so với các phương pháp thắt và cắt, hoặc mổ. Vì khi cắt, thắt đã làm mất chức năng lưu thông của các đám rối mạch máu trong khi lưu lượng máu qua đây vẫn ở mức bình thường, do máu lưu thông sẽ dồn sang hệ thống tĩnh mạch khác, kết quả lại gây ra trĩ, tỷ lệ tái phát rất cao. Hơn thể khi tiêm đủ liều và số lần đã làm co toàn bộ cả trĩ đã giãn, niêm mạc bị giãn, xơ dính nhau tạo thành khối có hiệu quả rất cao đối với trĩ và niêm mạc sa. Dưới tác dụng của thuốc, khối dính liên kết với khối cơ vốn đã bị tách rời do giãn lâu ngày tạo thành vành đai vững chắc, tăng cường khả năng co thắt của lớp cơ thắt hậu môn và cơ nâng hậu môn. Hiệu quả cao và tỷ lệ tái phát rất thấp, chỉ vào khoảng 2% / 2 đến 5 năm. Khi tái phát chỉ cần tiêm thêm từ 1 đến 2 lần là đảm bảo.