Xem Nhiều 3/2023 #️ Cảnh Giác Với Việc Sử Dụng Thuốc Chống Trầm Cảm Cho Trẻ Nhỏ # Top 10 Trend | Visuantoancuaban.com

Xem Nhiều 3/2023 # Cảnh Giác Với Việc Sử Dụng Thuốc Chống Trầm Cảm Cho Trẻ Nhỏ # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Cảnh Giác Với Việc Sử Dụng Thuốc Chống Trầm Cảm Cho Trẻ Nhỏ mới nhất trên website Visuantoancuaban.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Điều trị bệnh trầm cảm ở trẻ là rất quan trọng, tuy nhiên việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cho trẻ cũng cần phải hết sức lưu ý để mang lại hiệu quả tốt nhất.

Nguyên nhân gây trầm cảm ở trẻ nhỏ

Với cuộc sống phát triển như hiện nay, con số người mắc bệnh trầm cảm được dự đoán đến năm 2020 lên đến 130 triệu người, trong đó chiếm tới 35% là trẻ nhỏ. Việc trẻ nhỏ mắc bệnh trầm cảm do rất nhiều nguyên nhân, điển hình nhất phải kể đến đó là:

Mâu thuẫn trong gia đình: những xung đột trong gia đình cũng là nguyên nhân khiến trẻ trầm cảm, lúc này trẻ sẽ hụt hẫng và có xu hướng nghĩ là do lỗi của mình. Ví dụ như cha mẹ ly dị trẻ sẽ nghĩ là vì mình mà cha mẹ ly dị, “Tại sao mẹ (cha) lại sống với em mà không sống với mình?”, “Mẹ vì mình nên phải ly dị với cha!”. Ngoài ra, khi cha mẹ ly thân trẻ sẽ sống với một trong hai người do đó thiếu vắng tình cảm của gia đình, dẫn đến hụt hẫng tinh thần ở trẻ.

Áp lực học tập: Các bậc phụ huynh nào cũng muốn con mình học giỏi, thông minh nên đặt cho bé mục tiêu học tập quá cao, từ sớm, bắt chúng học nhiều… chính những điều này vô tình tạo áp lực nên con trẻ, khi trẻ không đạt được kết quả tốt như điểm kém thì cha mẹ tỏ thái độ không hài lòng, tức giận, có khi phạt trẻ khiến con sợ hãi, không giám chia sẻ với cha mẹ.

Di truyền: Yếu tố di truyền cũng là một trong những nguyên nhân khiến trẻ bị trầm cảm, cha hay mẹ hoặc trong gia đình có người từng bị trầm cảm, khiến cho trẻ có nguy cơ cao bị ảnh hưởng theo.

Nguyên nhân gây trầm cảm bắt nguồn từ vấn đề tâm lý, tinh thần của mỗi người. Biểu hiện thường thấy của bệnh đó là buồn chán, lo âu, mệt mỏi, không hứng thú với cuộc sống, kèm theo các bệnh lý trẻ em thường gặp khác…Trường hợp bị trầm cảm nặng có thể xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực, nguy hiểm hơn đó là tự tử. Để trị bệnh trầm cảm, đặc biệt là ở trẻ nhỏ thì cần phải kết hợp giữa phương pháp điều trị tâm lý và uống thuốc chống trầm cảm. Tuy nhiên, việc điều trị ở trẻ nhỏ cần chú ý tới nhiều vấn đề bởi nó có thể xảy ra những bất thường, khó kiểm soát được.

Lưu ý khi sử dụng thuốc chống trầm cảm cho trẻ nhỏ

Việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cho trẻ cần phải hết sức lưu ý, tuyệt đối không được phép tự ý sử dụng thuốc cho dù đó là thuốc Tây Y hay bài thuốc Y học cổ truyền mà chưa được chỉ định của những người có chuyên môn.

Thuốc trị bệnh trầm cảm chủ yếu được sử dụng gồm có : SSRIs (thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc), SNRIs (serotonin và norepinephrine tái hấp thu các chất ức chế), MAOIs (thuốc ức chế monoamine oxidase) và tricyclics. Có hai loại thuốc chống trầm cảm được chấp thuận cho trẻ em và thanh thiếu niên sử dụng điều trị chứng trầm cảm đó là thuốc Prozac (fluoxetine) cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên và Lexapro (escitalopram) cho trẻ từ 12 tuổi trở lên.

Điều quan trọng khi dùng thuốc chống trầm cảm nếu gặp một trong các triệu chứng như đau đầu, buồn nôn, mất ngủ và căng thẳng, kích động hoặc cảm giác bồn chồn, giảm tình dục, khô miệng, táo bón, mờ mắt hoặc buồn ngủ vào ban ngày… thì cần phải thông báo ngay cho bác sĩ điều trị của mình biết, vì đây có thể là các tác dụng phụ do thuốc gây ra. Cần phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng, liều lượng và những cảnh báo về tác dụng phụ.

Trong trường hợp kết hợp cả liệu pháp tâm lý và uống thuốc để trị bệnh trầm cảm không hiệu quả, bác sĩ sẽ dùng liệu pháp điện (ECT) với người bệnh. Phương pháp này chỉ được sử dụng trong trường hợp bệnh nặng, tuy nhiên nếu áp dụng với trẻ em cần cân nhắc kỹ lượng. ETC có thể gây ra một số tác dụng phụ như hay nhầm lẫn, hay quên, mất trí nhớ và không xác định rõ phương hướng. Điều này cũng khá nguy hiểm với trẻ em vì cơ thể của trẻ còn khá non nớt cả về mặt nhận thức lần cơ thể.

Các khuyến cáo trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên khi dùng thuốc chống trầm cảm cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt là trong những tuần đầu điều trị với các triệu chứng như trầm cảm nặng hơn, suy nghĩ hoặc hành vi tự tử. Chúng bao gồm các thay đổi bất thường trong hành vi như mất ngủ, kích động.

Bảo Đảm An Toàn Khi Sử Dụng Thuốc Chống Trầm Cảm Cho Trẻ Nhỏ

Chia sẻ:

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc chống trầm cảm hiệu quả, tuy nhiên việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cho trẻ em cần phải hết sức cẩn trọng.

Ngày càng có nhiều trẻ nhỏ, thanh thiếu niên vì một lý do nào đó mà bị rơi vào tình trạng trầm cảm, khiến cho những bậc phụ huynh hết sức lo lắng, tìm mọi cách để điều trị, tuy nhiên việc điều trị bệnh trầm cảm ở trẻ nhỏ không phải là cứ mua thuốc chống trầm cảm về cho con sử dụng là sẽ khỏi mà cha mẹ cần phải tìm hiểu nguyên nhân khiến trẻ rơi vào tình trạng này thì mới có thể dễ dàng giúp trẻ thoát khỏi tình trạng này.

Nguyên nhân khiến trẻ bị trầm cảm

Chuyên mục cho biết, có rất nhiều nguyên nhân gây ra chứng trầm cảm ở trẻ, điển hình phải kể đến đó là:

Xung đột gia đình: Những mâu thuẫn, xung đột của cha mẹ hay những thành viên khác trong gia đình là nguyên nhân gây trẻ rơi vào tình trạng trầm cảm, khiến cho trẻ bị hụt hẫng và suy nghĩ đó là do lỗi của mình. Ngoài ra, việc thiếu thốn tình cảm của cha hay mẹ sẽ khiến trẻ bị tổn thương tinh thần và rơi vào tình trạng trầm cảm.

Học tập căng thẳng: Việc để mong muốn con mình thông minh, học giỏi của nhiều bậc phụ huynh vô tình tạo ra áp lực cho trẻ, lúc nào nào cũng bắt chúng phải chăm chỉ học tập dẫn tới đầu óc căng thẳng, sỡ hãi khi bị điểm kém, bị bố mẹ chê trách, lâu dẫn sẽ khiến trẻ mất đi sự tự tin, không giám tiếp xúc với mọi người xung quanh.

Thay đổi môi trường sống: Việc trẻ đang quen với mái nhà, ngôi trường bạn bè hiện tại nhưng đột ngột lại bị chuyển đi mà không hề được biết trước sẽ khiến cho trẻ có suy nghĩ tiêu cực là do mình thì cha mẹ mới chuyển nhà, cùng với việc phải tập quen dần với môi trường mới, bạn bè mới cũng rất dễ khiến trẻ rơi vào tình trạng trầm cảm.

Nguyên nhân gây ra trầm cảm bắt nguồn từ vấn đề tâm lý, tinh thần của mỗi người. Trường hợp bị trầm cảm lâu ngày có thể xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực như bỏ đi, tự tử. Để trị bệnh trầm cảm, rất nhiều phụ huynh tìm đến những loại thuốc chống trầm cảm cho con sử dụng, tuy nhiên, việc điều trị trầm cảm bằng thuốc ở trẻ nhỏ cha mẹ cần phải hết sức cận trọng, hiểu đúng về bệnh để điều trị an toàn, hiệu quả nhất.

Sử dụng thuốc trầm cảm cho trẻ như thế nào cho an toàn?

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc chống trầm cảm được bán, tuy nhiên những loại thuốc này hầu hết ít có tác dụng đối với trẻ nhỏ và tiềm ẩn những tác dụng phụ gây hại tới não bộ của trẻ, ảnh hưởng tới sự phát triển của .

Loại thuốc chống trầm cảm được chỉ định dùng cho trẻ nhỏ, đem lại hiệu quả cao nhất chỉ có 2 loại đó là thuốc Prozac (fluoxetine) cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên và Lexapro (escitalopram) cho trẻ từ 12 tuổi trở lên. Những loại thuốc khác đều có tác dụng rất thấp thậm chí là thiếu an toàn đối với trẻ nhỏ, do đó cha mẹ cần phải hết sức cẩn trọng.

Thay vì việc sử dụng thuốc thuốc trầm cảm cho trẻ em, các dược sĩ tư vấn rằng cách tốt nhất để chữa bệnh cho họ chính là tìm hiểu nguyên nhân rồi tiếp cận, thay đổi hành vi, sử dụng các liệu pháp trị liệu tinh thần không dùng thuốc như hội họa, âm nhạc, trò chuyện…

Với độ tuổi thanh thiếu niên trẻ em rất dễ nhạy cảm và thường chưa có nhiều kinh nghiệm để xử lý các vấn đề rắc rối, cân bằng cảm xúc của bản thân chính vì vậy bên cạnh là người giám hộ nuôi dưỡng, các bậc phụ huynh hãy trở thành “người bạn đồng hành” của con, không nên gây sức ép lên trẻ quá nhiều. Cha mẹ nên quan tâm và trò chuyện với con nhiều hơn, chú ý những thay đổi của trẻ, hãy thường xuyên cho trẻ tham gia các hoạt động bên ngoài, hoạt động cộng đồng

Trong trường hợp kết hợp cả liệu pháp tâm lý và uống thuốc để trị bệnh trầm cảm không hiệu quả, bác sĩ sẽ dùng liệu pháp điện (ECT) với người bệnh. Tuy nhiên phương pháp này cần phải được cân nhắc trước khi áp dụng điều trị cho trẻ. Bởi vì phương pháp ETC có thể gây ra một số tác dụng phụ như hay nhầm lẫn, hay quên, mất trí nhớ và không xác định rõ phương hướng. Điều này cũng khá nguy hiểm với trẻ em vì cơ thể của trẻ còn khá non nớt cả về mặt nhận thức lần cơ thể.

Nguồn: chúng tôi

Cảnh Giác Với Thuốc Giảm Đau Fentanyl Nhóm Opioid

Fentanyl là thuốc giảm đau thường được dùng trước và sau mổ nhưng không phải bệnh nhân nào cũng sử dụng được loại thuốc này.

Tác dụng phụ nguy hiểm của thuốc giảm đau Fentanyl

Fentanyl là thuốc giảm đau nhóm opioid, thuốc có các dạng viên ngậm, thuốc tiêm, hoặc miếng dán.

Dạng thuốc Fentanyl tiêm: thường được dùng trước, trong và ngay sau khi mổ để giảm đau.

Dạng thuốc Fentanyl viên ngậm: được dùng để giảm đau mạn tính ở những bệnh nhân bị bệnh ung thư có dung nạp opiat. Không được dùng dạng này để giảm đau cấp tính, đau sau khi mổ cho những người không dung nạp opiat do có nguy cơ làm suy hô hấp ở người bệnh.

Dạng thuốc Fentanyl miếng dán: được dùng để điều trị đau mạn tính thể vừa, nặng và cần giảm đau bằng opiat (ví dụ đau do bệnh ung thư gây ra) do các thuốc giảm đau khác không có tác dụng và cần dùng liên tục opiat trong thời gian dài.

Do có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm cho người bệnh và là thuốc giảm đau có thể gây nghiện nên thuốc chỉ được dùng theo đúng chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Cụ thể, fentanyl chỉ được dùng ở bệnh viện và do cán bộ có kinh nghiệm về gây mê bằng đường tĩnh mạch, gây tê ngoài màng cứng và quen xử trí với các tai biến của thuốc giảm đau opioid. Cơ sở khám chữa bệnh phải có sẵn thuốc đối kháng opioid, thuốc hồi sức, phương tiện đặt nội khí quản và oxygen, trong và sau khi sử dụng fentanyl.

Cách sử dụng các dạng thuốc giảm đau Fentanyl

Dạng viên ngậm: chỉ được dùng kéo để lấy viên thuốc ra khỏi vỉ ngay trước khi chúng được dùng (không quá 15 phút); đặt viên thuốc giữa má và cung lợi phía dưới; không được phép nhai, nuốt viên thuốc; có thể di chuyển viên thuốc sang phía má bên kia.

Dạng miếng dán: phải được dán trên chỗ da khô, da lành và không được để hở ra ngoài trời, bề mặt phẳng (vùng ngực, lưng, lườn, cánh tay); sau đó dùng tay ấn lên miếng dán trong 30 giây, đảm bảo cho toàn bộ miếng dán đều tiếp xúc nhất là các góc. Với trẻ nhỏ và người có rối loạn ý thức thì phải dán miếng dán ở nơi không thể bị bệnh nhân lấy ra cho vào miệng. Ở vùng da dán thuốc, không được cạo lông mà phải nhổ lông; chỉ rửa vùng này bằng nước sạch, không dùng xà phòng, dầu, dung dịch tẩy, cồn hay hóa chất để tránh bị kích thích. Sau khi dán thuốc, bệnh nhân có thể tắm, gội hay bơi nhưng cần tránh phơi nắng, tránh tắm nước nóng, tránh để vùng có dán thuốc bị chiếu nhiệt trực tiếp vì sẽ làm tăng hấp thu thuốc, có thể dẫn đến quá liều. Phải luân chuyển vị trí dán thuốc, không dán mãi ở 1 chỗ hoặc dán đè lên chỗ dán cũ.

Không được dùng thuốc giảm đau Fentanyl trong các trường hợp nhược cơ, đau nhẹ (trong trường hợp này, nên dùng các thuốc giảm đau khác như acetaminophen (paracetamol) hoặc thuốc giảm đau không steroid).

Ngộ Độc Chú Ý Với Thuốc Chống Trầm Cảm 3 Vòng (Tcas)

TCAs chiếm vị trí quan trọng trong các loại thuốc được sử dụng trong các mưu toan tự tử cũng như các loại thuốc này nổi tiếng là nguy hiểm.NGHIÊN CỨU HỒI CỨU :

Chúng tôi nghiên cứu 145 hồ sơ bệnh án tại Khoa cấp cứu các trường hợp mưu toan tự tử bằng thuốc chống trầm cảm từ 1 tháng 1 năm 1976 đến 31 tháng 8 năm 1983.

* Tần suất: trong thời gian trên có 3909 bệnh nhân được nhập viện vì mưu toan tự tử bằng thuốc, trong đó 4 % dùng thuốc chống trầm cảm. * Giới tính: 110 nữ, 35 nam. * Loại thuốc : 2 loại chính được người bệnh chọn để tự tử là clomipramine và amitriptyline ( Bảng 1 ) . Sơ đồ I chỉ ra liều lượng giả định người bệnh đã uống, hoặc do người bệnh khai ra, hoặc do nhận định từ vỏ bao thuốc tìm thấy được. Liều lượng thấp hoặc vừa phải dưới 1,5 g gặp nhiều nhất ( 49,6% ).

Liều lượng không biết 55 trường hợp (37,9%)

Số ca

50

40

37,9%

30

20

11,7%

0 4,1% 1.4%

0 1 2 3 4 5

liều lượng uống tính theo gram

Bảng I Phân bố theo loại thuốc:

CÁC THUỐC UỐNG TỰ TỬ PHỐI HỢP Trong số 71 bệnh nhân có khoảng 1 / 2 trường hợp uống thuốc chống trầm cảm chung với các loại thuốc khác hoặc với rượu ( Bảng II ).

Bảng II. Thuốc uống tự tử phối hợp :

1/. Rối loạn ý thức :

48 lần ghi nhận, khoảng 33% số bệnh nhân có rối loạn ý thức. Các rối loạn ý thức xuất hiện nhanh, thời gian ít hơn 6 giờ ở 88% trường hợp và diễn ra trong thời gian ngắn ( 48 giờ ). 38 / 48 trường hợp các rối loạn ý thức xảy ra ở người uống nhiều loại thuốc tự tử, và chỉ có 10 lần rối loạn ý thức ở người dùng thuốc chống trầm cảm tự tử. Ơ những bệnh nhân này thì 7 / 8 lần là những bệnh nhân uống nhiều hơn 1,5 g. Ức chế hô hấp luôn kèm theo các rối loạn ý thức. 35 bệnh nhân phải được hỗ trợ hô hấp từ 1 đến 5 ngày, trong đó 31 bệnh nhân phải thở máy dưới 24 giờ.

Bảng III . Tần xuất các biến chứng chủ yếu trong ngộ độc TCAs

2/. Cơn co giật:

Xảy ra ở 3 bệnh nhân và chỉ quan sát được ở bệnh nhân ngộ độc với các thuốc chống trầm cảm. Tất cả các cơn co giật chỉ xảy ra trong 12 giờ đầu sau ngộ độc. Những bệnh nhân này không có thay đổi trên ECG.

3/. Các rối loạn tim mạch : 29 bệnh nhân ( 20 % ) có nhịp tim nhanh trên 100 lần/ phút. Tụt huyết áp xảy ra ở 6 bệnh nhân. Có các rối loạn dẫn truyền sau : * 16 block nhánh hoàn toàn, trong đó 9 trường hợp block nhánh phải và 7 block nhánh trái * 4 block nhĩ – thất giai đoạn I. Tất cả các thay đổi ECG xuất hiện sớm vì có tới 98 % trường hợp ngay khi tới cấp cứu và tất cả đều xuất hiện trong 24 giờ đầu nhập viện. Các rối loạn dẫn truyền xảy ra ở 70 % bệnh nhân trên 60 tuổi. Trái lại, dưới 60 tuổi chỉ có dưới 10 % bệnh nhân. Sự khác biệt này có ý nghĩa rất cao. Tần xuất các biến chứng tim mạch xảy ra cũng tăng như liều lượng thuốc uống vào.

Có 1 trường hợp ngưng tim duy nhất xảy ra sau 4 giờ nhập viện ở bệnh nhân uống clomipramine không rõ số lượng. ECG lúc vào Khoa cấp cứu hồi sức bình thường. Bệnh nhân này chuyển sang rung thất một cách đột ngột. Cấp cứu kết hợp với truyền muối lactate phục hồi hoàn toàn.

Duy nhất 1 trường hợp tử vong là nữ 58 tuổi, bị ngộ độc amitriptyline kèm với benzodiazépine và tới Khoa hồi sức trong tình trạng hôn mê. Tử vong đột ngột vào ngày thứ 3 trong tình trạng thiếu oxy – giảm CO2 huyết vì có thể thuyên tắc phổi , không có bất thường ECG.

Trong công trình hồi cứu này chúng tôi quan tâm chủ yếu tới các biến chứng tim mạch vì rằng đây là các biến chứng nặng trong ngộ độc thuốc chống trầm cảm đòi hỏi có phương tiện theo dõi chăm sóc liên tục . Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy giống như các báo cáo trong y văn, các biến chứng này không thường xuyên ( 18 % bệnh nhân ) nếu chúng ta loại bỏ các trường hợp nhịp tim nhanh không kịch phát vì khó nhận định chắc chắn do các thuốc imipramine gây ra trong bối cảnh cảm xúc ở người có mưu toan tự tử và các rối loạn tái cực là dấu hiệu ngấm thuốc hơn là ngộ độc.

Tuy nhiên, mối lo ngại của các rối loạn trên dẫn tới thái độ chăm sóc liên tục một số lượng lớn những bệnh nhân không có các biến chứng trong một thời gian khó xác định .

Chắc chắn có một mối quan hệ giữa liều lượng thuốc uống vào và các biến chứng như trong nghiên cứu của các tác giả Y.Bouffard và B. Palmier và nghiên cứu của chúng tôi cũng chứng minh điều đó. Việc định lượng nồng độ thuốc trong máu không thực hiện trong nghiên cứu này, nhưng kết quả định lượng trong nghiên cứu của M.T. Boehnert và F.H. Levejoy không mang lại bất kỳ lời khuyên nào. Trái lại, phức hợp QRS giãn rộng đối với các tác giả trên có vẻ là một dấu hiệu có giá trị rất lớn để bắt buộc theo dõi ECG một cách chặt chẽ. Chúng tôi không tìm thấy mối quan hệ qua lại giữa độ giãn rộng của phức hợp QRS và các cơn co giật xảy ra, nhưng có thể do việc kết hợp các loại thuốc thường xuyên sử dụng làm ngăn cản sự xuất hiện của các dấu chứng thần kinh. Trái lại, điều này dẫn tới sự đối ngược của các dữ kiện dược động học các loại thuốc chống trầm cảm mà thời gian bán hủy của chúng rất dài cũng như đối ngược với thái độ hồi sức cấp cứu. Điều hết sức chú ý là trong nhóm nghiên cứu 145 bệnh nhân của chúng tôi không có biến chứng tim mạch nào bắt đầu ngay sau 24 giờ đầu nhập viện. Lý do còn chưa rõ vì những thuốc này tồn tại nhiều ngày trong nước tiểu và trong máu. Đối với một số tác giả thì còn có sự gia tăng điều tiết dịch của các cơ quan do các thuốc chống trầm cảm gây nên mà cơ chế hoàn toàn chưa được biết đến.

Đối với chúng tôi, điều quan trọng rõ ràng là các biến chứng tim mạch xảy ra trong 24 giờ đầu ngộ độc TCAs đòi hỏi chăm sóc giám sát monitoring trong suốt thời gian này. Chính sự giãn rộng phức hợp QRS chứng tỏ là dấu hiệu rõ nhất của tác động tim mạch trong ngộ độc và là dấu hiệu rõ nhất để duy trì chăm sóc giám sát monitoring. Điều luôn luôn quan trọng là biết được liều lượng thuốc bệnh nhân đã uống vì đó là một dữ kiện định hướng báo hiệu xuất hiện các biến chứng. Luôn luôn quan trọng nhiều hơn nữa là phòng ngừa hơn chữa trị, chúng tôi mong muốn trong điều trị những bệnh nhân có nguy cơ uống thuốc tự tử trong điều kiện do bệnh nhân giữ chỉ kê toa đúng số lượng TCAs cần dùng , tránh hoàn toàn việc kê toa dài ngày.

Tóm tắt :

Sau uống ngộ độc TCAs, tần suất các biến chứng tim mạch càng nhiều khi liều lượng thuốc càng tăng . Độ giãn rộng của phức hợp QRS của bệnh nhân là dấu hiệu chỉ định theo dõi monitoring.

Các biến chứng tim mạch xảy ra sớm, trong 145 trường hợp nghiên cứu không có biến chứng nào sau 24 giờ nhập viện.UỐNG QUÁ LIỀU LƯỢNG THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM 3 VÒNG ( TCAs ) : nhận biết và xử trí

Với liều lượng nhiều hơn 1 g thuốc TCAs thường xảy ra ngộ độc cấp tính và có thể gây tử vong do loạn nhịp tim, hạ huyết áp hoặc không kiểm soát được các cơn co giật. Nồng độ thuốc trong huyết thanh nghi ngờ khi uống quá liều vừa vì thông tin không rõ ràng của người bệnh hoặc của người thân và vừa vì các biểu hiện sinh học do dùng liều cao của các hợp chất ( TCAs ) này còn ít được hiểu biết. Tuy nhiên, nồng độ huyết thanh của hợp chất gốc và hoạt động chuyển hóa của chúng cung cấp từ những thông tin đặc biệt về sự trầm trọng của quá liều lượng ít hơn những thông tin có thể hy vọng. Trong quá liều nghiêm trọng, nồng độ huyết thanh lớn hơn 1,000 ng/mL kèm theo thời gian QRS tăng tới 0,10s hoặc hơn. Tuy nhiên hậu quả nặng nề của quá liều TCAs có thể xảy ra với nồng độ huyết thanh dưới 1,000ng/ mL và với QRS kéo dài ít hơn 0,10s.

Trong quá liều cấp tính, hầu như các triệu chứng tiến triển trong 12 giờ đầu:

Tác động chống muscarini nổi bật là khô niêm mạc, da ấm, nhìn mờ, giảm nhu động ruột và thường có bí tiểu. Hoặc ức chế hệ thần kinh trung ương (từ ngủ gà tới hôn mê ) hoặc sảng kích động có thể xảy ra. Tác động ức chế hệ thần kinh trung ương của TCAs tiềm tàng bởi sự hấp thu đồng thời rượu, các thuốc nhóm benzodiazépine và các thuốc an thần gây ngủ khác. Các cơn co giật cũng có thể xảy ra và trong trường hợp quá liều trầm trọng, ngưng hô hấp cũng có thể xảy ra.

Ngộ độc tim mạch hiện diện là nguy hiểm đặc biệt. Hạ huyết áp thường xảy ra dù bệnh nhân ở tư thế nằm. Có thể xuất hiện các loại loạn nhịp khác nhau bao gồm nhịp nhanh trên thất, nhịp nhanh thất hay rung thất và các mức độ block kể cả block hoàn toàn.

Xử trí cấp cứu :

Nền tảng trị liệu quá liều TCAs bao gồm gây nôn ói nếu bệnh nhân đang ở tình trạng báo động và rửa dạ dày ruột nếu bệnh nhân không trong tình trạng trên. Vì nhu động ruột có thể chậm lại nên có thể có ích khi dùng 30g than hoạt với thuốc tẩy nhẹ như magnesium citrate 120mL nhằm giảm sự hấp thu TCAs còn lại trong ruột.

Chăm sóc hỗ trợ tim mạch nên được tiến hành nếu cần thiết. Bệnh nhân có suy hô hấp đòi hỏi thở máy. Hạ huyết áp phải truyền dịch ( tuy nhiên chỉ định này phải thận trọng nếu bệnh nhân có suy tim ). Trường hợp tụt huyết áp kéo dài hoặc có suy tim các chất ức chế như epinephrine hay pheylephrine có thể được chọn lựa vì chúng làm mất tác dụng anti – ?1 – adrenergic của thuốc chống trầm cảm.

Một số bệnh nhân loạn nhịp tim QRS giãn rộng hơn 0,10s hoặc nồng độ TCAs huyết thanh cao hơn 1,000 ng/mL đòi hỏi tiếp tục theo dõi tốt hơn bằng monitoring trong ICU. Tốt hơn là thực hiện chia theo dõi theo từng kỳ và ngưng monitoring khi QRS trở về bình thường.

Nhịp xoang nhanh thông thường không đòi hỏi điều trị. Nhịp xoang nhanh trên thất góp phần làm thiếu máu cơ tim hay hạ huyết áp có thể chỉ định dùng máy DC khử rung. Nên tránh dùng digoxine vì có thể làm nhanh thêm block tim nhưng propranolol tỏ ra an toàn trong nhịp nhanh trên thất tái phát. Dùng máy DC khử rung là một chọn lựa trong nhịp nhanh thất hay rung tim. Dùng phenytoine có thể rút ngắn loạn nhịp thất. Nếu sử dụng lidocaine có khả năng làm tăng cơn co giật. Nếu lidocaine không đáp ứng trong phòng ngừa loạn nhịp thì chọn dùng propranolol hay bretylium. Nên tránh dùng quinidine, procainamide và disopyramide vì có thể làm kéo dài QRS và có thể làm tăng block tim khi ngộ độc TCAs. Nếu block tim mức độ II hoặc III có thể chế ngự được với việc đặt tạm thời máy tạo nhịp. Physostigmine thường không hiệu quả trong hầu hết các trường hợp loạn nhịp tim do TCAs.

Ngộ độc hệ thần kinh trung ương cũng có thể diễn ra tình trạng xấu hoặc tử vong trong ngộ độc TCAs. Thông thường bệnh nhân sảng cần có môi trường yên tĩnh và an toàn, trạng thái kích động có thể phải cố định. Đối với bệnh nhân không kiểm soát được sảng đe dọa kết quả điều trị có thể dùng benzodizépine liều thấp. Vì độc tính và tác dụng ngắn nên physostigmine thường được khuyên không dùng như một thuốc điều trị.

Một biến chứng y khoa khó chịu nhất trong quá liều TCAs là các cơn co giật. Thuốc hàng đầu chỉ định đối với cơn co giật do TCAs là một trong hai benzodizépam sau : dizépam hoặc lorazépam. Dizépam từ 5 đến 10mg IV với tốc độ 2mg/ phút. Có thể nhắc lại mỗi 5 – 10 phút cho tới khi cơn co giật được kiểm soát. Nguy cơ ngưng hô hấp thấp nhất nếu IV benzodiazépine chậm, nhưng phải có đủ thiết bị theo dõi. Lorazépam 1 – 2mg IV trong vài phút. Lợi điểm của Lorazépam là hiệu quả sinh học dài hơn diazépam trong điều trị cấp cứu ( hàng giờ so với từng phút ) vì nó phân bố rải rác lượng nhỏ và có lẽ khuynh hướng ức chế hô hấp ít hơn. Nếu dùng benzodiazépam thất bại có thể dùng phenytoine tổng liều 15mg/Kg nhanh không quá 50mg/phút. Dùng quá nhanh phénytoine là nguyên nhân tụt huyết áp trầm trọng.

Lợi tiểu mạnh và thẩm phân phúc mạc không có giá trị vì TCAs gắn vào protéine và màng tế bào và có thể làm trầm trọng huyết động học vốn đã không bền vững. Truyền máu có thể có vai trò giới hạn trong trường hợp cực kỳ trầm trọng, nhưng chỉ định này phải được tiến hành khi có kinh nghiệm.

Theo Hanbook of Psychiatric Drug Therapy, Fourth Edition, George W. Arana. Jerold F. Rosenbaum. Trang 98 – 100.

Bs PHẠM VĂN TRỤ BS CK1, phó Giám đốc BVTT

Bạn đang xem bài viết Cảnh Giác Với Việc Sử Dụng Thuốc Chống Trầm Cảm Cho Trẻ Nhỏ trên website Visuantoancuaban.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!