Cập nhật thông tin chi tiết về Bạn Có Đang Bị Rối Loạn Cảm Xúc? mới nhất trên website Visuantoancuaban.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Rối loạn cảm xúc có rất nhiều dạng. Trong đó, hai chứng rối loạn cảm xúc thường gặp nhất của con người là trầm cảm và rối loạn lưỡng cực.
2.1 Cảm xúc ức chế (trầm cảm)
Dạng phổ biến nhất của rối loạn cảm xúc hiện nay đó là trầm cảm. Nếu bạn có ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, trong đó có ít nhất triệu chứng 1 hoặc 2; và các triệu chứng kéo dài ít nhất 2 tuần. Khi đó, bạn cần được gặp bác sĩ để được điều trị thích hợp.
2.1.1 Trạng thái u uất kéo dài cả ngày
Nét mặt trở nên đơn điệu, luôn buồn bã. Các nếp nhăn giảm nhiều thậm chí mất hết nếp nhăn. Một số người than phiền rằng không còn nhiệt tình, không còn cảm giác gì. Hoặc luôn trong tình trạng lo âu. Nhiều bệnh nhân lại có trạng thái tăng kích thích (dễ cáu gắt, dễ khó chịu với một lỗi lầm nhỏ).
2.1.2 Giảm hoặc mất mọi hứng thú
Các bệnh nhân cho rằng họ đã mất hết các sở thích. Họ thường trả lời “Tôi không thích gì bây giờ cả”. Tất cả các sở thích trước đây của bệnh nhân đều bị ảnh hưởng nặng nề, kể cả ham muốn tình dục.
2.1.3 Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng
Người bệnh cảm thấy chán ăn, mất cảm giác ngon miệng. Họ có thể không hề thấy đói mặc dù cả ngày không ăn gì. Với một số trường hợp, bữa ăn trở thành gánh nặng ép buộc với họ. Dù rất cố gắng, người bệnh trầm cảm chỉ ăn được rất ít so với lúc bình thường.
Ngược lại, ở khoảng 5% số bệnh nhân trầm cảm lại tăng cảm giác ngon miệng và ăn vô độ. Khi đó họ dễ tăng cân và trở thành béo phì.
2.1.4 Mất ngủ hay ngủ nhiều quá mức
Đa phần bệnh nhân trầm cảm thường bị mất ngủ. Bệnh nhân có thể tỉnh ngủ giữa giấc. Mất ngủ là triệu chứng gây khó chịu rất nhiều cho bệnh nhân. Họ thấy đêm rất dài, trằn trọc mãi mà không ngủ được.
Hiếm gặp hơn, có một số bệnh nhân biểu hiện ngủ quá mức. Họ có thể ngủ tới 12 tiếng mỗi ngày, thậm chí ngủ nhiều hơn nếu không có công việc gì. Ngủ nhiều gặp ở 5% số bệnh nhân trầm cảm và thường phối hợp với triệu chứng ăn nhiều.
Các hành vi rối loạn này được nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác của bệnh nhân. Người bệnh trầm cảm có thể trở nên bồn chồn lo âu, đứng ngồi không yên. Họ vận động liên tục mà không có mục đích rõ ràng. Một số lại trở nên chậm chạp (nói chậm, cử động chậm, nói nhỏ, ít từ, nội dung nghèo nàn). Có thể nằm lì trên giường cả ngày mà không hoạt động gì.
2.1.6 Mệt mỏi, mất năng lượng hầu như mỗi ngày
Thậm chí chỉ với một công việc rất nhẹ nhàng, người bị trầm cảm cũng cần một sự tập trung và cố gắng nhiều mới hoàn thành được. Ví dụ, một người có thể than phiền rằng việc rửa mặt và mặc quần áo cũng làm họ kiệt sức và cần thời gian nhiều hơn bình thường 2 lần để làm xong.
Khi triệu chứng giảm sút năng lượng xuất hiện trở nên trầm trọng thì bệnh nhân hầu như không thể làm được việc gì (thậm chí cả vệ sinh cá nhân cũng là quá sức với họ).
2.1.7 Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức
Bệnh nhân cho rằng mình là kẻ vô dụng. Họ luôn nghĩ mình đã làm hỏng mọi việc, trở thành gánh nặng cho gia đình, cơ quan và xã hội. Thậm chí bệnh nhân luôn tự trách móc bản thân chỉ vì những sai lầm rất nhỏ. Nhiều bệnh nhân luôn nghĩ mọi việc không hay xảy ra là do khiếm khuyết của họ. Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi có thể mạnh lên thành hoang tưởng. Ví dụ: một bệnh nhân tin rằng anh ta là sự khốn cùng của thế giới.
2.1.8 Khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định
Bệnh nhân thường phải cân nhắc rất nhiều thời gian với những việc thông thường. Ví dụ một người nội trợ đã không thể quyết định mua rau muống hay rau cải. Bệnh nhân khó tập trung hoàn thành những việc đơn giản như không thể đọc xong một bài báo ngắn. Hoặc không thể nghe hết một bài hát yêu thích. Hoặc không thể xem hết một chương trình tivi mà trước đây vẫn quan tâm.
Rối loạn trí nhớ ở bệnh nhân thường là giảm trí nhớ gần. Bệnh nhân thường xuyên quên mình vừa làm gì. Ví dụ như không nhớ mình vừa ăn gì, không thể nhớ đã bỏ chìa khoá ở đâu…
2.1.9 Ý nghĩ muốn chết hoặc có hành vi tự sát
Mật độ và cường độ của ý định tự sát có thể rất khác nhau. Trong trường hợp nặng, ý nghĩ tự sát tái diễn (1 hoặc 2 lần/tuần), họ có thể cân nhắc kỹ càng và chuẩn bị kĩ trước khi thực hiện.
2.2 Cảm xúc vui vẻ tột độ (hưng cảm)
Là một trạng thái cảm xúc hoàn toàn đối lập với trầm cảm. Người bệnh trở nên phấn khích quá mức về mặt cảm xúc và hành vi mà không kiểm soát được. Các biểu hiện của hưng cảm bao gồm:
Nói nhiều và nhanh hơn bình thường, không kiểm soát được. Nội dung lộn xộn và liên tục thay đổi.
Nảy sinh ra những ý tưởng, hành động điên rồ tức thì mà không kịp nghĩ đến hậu quả. Có thể dẫn đến nguy hiểm cho bản thân hoặc những người xung quanh.
Khó tập trung, giảm nhu cầu ngủ.
Ảo tưởng về khả năng của bản thân.
Đôi khi bệnh nhân trở nên hung dữ, thích đập phá, châm chọc gây bất hòa.
Vẻ mặt rất biểu cảm, đứng ngồi không yên, hay liếc mắt với người khác, ít ngủ, ăn uống ít, thân mật với mọi người thái quá, chi tiêu không tính toán, không biết e thẹn nên hay có những hành vi lỗ mãng, khiêu dâm, đi đứng như là đang đi diễu binh.
3. Nguyên nhân gây nên chứng rối loạn cảm xúc
Chứng rối loạn hành vi thường có rất nhiều nguyên nhân. Một số yếu tố gây ra bệnh gồm:
Do gen di truyền.
Não bị tổn thương hoặc do các chấn thương ở hệ thống dẫn truyền thần kinh ở các vùng khác nhau của não bộ.
Rối loạn nội tiết: sự thay đổi bất thường về nội tiết trong cơ thể cũng có thể dẫn đến rối loạn cảm xúc.
Do các tác động từ cuộc sống như quá khứ từng bị lạm dụng, gia đình không hạnh phúc…
Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị rối loạn cảm xúc bao gồm:
Đã từng bị trầm cảm trước đây
Nữ giới: là nhóm đối tượng dễ bị tác động bởi yếu tố tâm lý
Cuộc sống căng thẳng, ít hoạt động
Người bị bệnh nặng, bệnh nan y, mất trí nhớ
Lạm dụng thuốc, hoặc bia rượu, chất kích thích
4. Điều trị rối loạn cảm xúc thế nào?
Việc điều trị thường bắt đầu với biện pháp tâm lý trị liệu. Người bệnh có thể phải uống thuốc nếu bác sĩ thấy cần thiết. Thường thì biện pháp điều trị hiệu quả nhất là kết hợp cả hai.
Về vấn đề trị liệu tâm lý, nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp giao tiếp hoặc hành vi nhận thức rất hữu ích cho những người mắc bệnh trầm cảm.
Cần lưu ý rằng thuốc chống rối loạn cảm xúc là con dao hai lưỡi. Khi sử dụng phải theo chỉ định của bác sĩ. Cả người bệnh và người thân trong gia đình cần theo dõi chặt chẽ cả về tâm thần và cơ thể, giấc ngủ.
Liều lượng và cách dùng từng thuốc tùy thuộc vào từng cơ sở điều trị và kinh nghiệm của bác sĩ chuyên khoa. Người bệnh không được tự ý dùng thuốc theo người khác vì mỗi người có một liều lượng khác nhau.
4.2 Lời khuyên để phòng ngừa các rối loạn cảm xúc
Học cách cân bằng, không quá trầm trọng hóa các vấn đề và đón nhận mọi sự cố trong cuộc đời mình một cách nhẹ nhàng hơn.
Sống thật với cảm xúc của mình (không cần che giấu hoặc sống ảo). Khi có sự cố, phải đối đầu với nó bằng một tinh thần đón nhận. Không khoả lấp vấn đề bằng việc trốn tránh hoặc bằng những thú vui tạm thời. Hãy chân thành với suy nghĩ thật của bản thân. Bạn có thể chia sẻ với gia đình, bạn bè tin cậy.
Trang bị cho mình kiến thức để biết về bệnh tâm lý. Khi bạn thấy mình bắt đầu rơi vào căng thẳng mất kiểm soát hay có triệu chứng của mất ngủ, của hoang mang, của âu lo… hãy tích cực tìm hiểu về nó để giải quyết.
Tập lối sống sinh hoạt điều độ. Việc ăn uống lành mạnh, nhiều trái cây và rau xanh. Việc tập thể dục mỗi ngày (gym, yoga, đi bộ, bơi lội…) không những giúp nâng cao sức khỏe thể chất mà còn cải thiện tinh thần.
Rối loạn cảm xúc là căn bệnh phức tạp và gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên đời sống của người bệnh. Biện pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu là sử dụng thuốc và tư vấn, ngoài ra người bệnh còn cần thêm sự trợ giúp của những người thân xung quanh và giáo dục để kiểm soát hành vi. Hy vọng qua bài viết này, bạn sẽ có được những thông tin hữu ích để tìm ra hướng giải quyết phù hợp nhất.
Rối Loạn Cảm Xúc Lưỡng Cực
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLLC) là gì? Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn tại não bộ gây ra sự biến đổi cảm xúc không ổn định. Người bệnh chuyển từ cảm xúc hưng phấn (hưng cảm) sang cảm xúc ức chế ( trầm cảm). Bệnh có tính chất chu kỳ xen kẽ giữa hưng phấn và ức chế.
RLLC xảy ra với tỷ lệ xấp xỉ 1% dân số chung . Tỷ lệ nam và nữ ngang nhau, thường gặp ở mọi lứa tuổi thông thường từ 20 đến 40 tuổi. Phụ nữ thường có giai đoạn trầm cảm kéo dài hơn, ngược lại nam giới gian đoạn hưng cảm thường kéo dài hơn. Một phần ba (1/3) người bị RLLC có triệu chứng trong suốt cuộc đời. Những triệu chứng này có thể gây trở ngại tới khả năng lao động, học tập và các mối quan hệ gia đình, xã hội. Trong giai đoạn hưng cảm, người bệnh có thể tự gây tổn hại cho bản thân mình hoặc những người khác, hoặc có các xung động (kích động) mà bản thân họ không nhận ra là có thể nguy hiểm, nghiêm trọng như thế nào.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực có thể dẫn đến – Hưng cảm trầm cảm hoặc các rối loạn khác làm cho người bệnh cách biệt với môi trường xung quanh, giảm chất lượng cuộc sống.
Nguyên nhân của RLLC là gì? Nguyên nhân đích thực của bệnh hiện nay vẫn chưa biết. Tuy nhiên các nghiên cứu khoa học cho thấy có sự mất cân bằng sinh hoá trong não đặc biệt là hệ Norepinephrine, Serotonin và các chất sinh hoá khác. Yếu tố di truyền cũng được đề cập.
Các biểu hiện triệu chứng RLLC: Các triệu chứng xuất hiện ở 3 nhóm
– Trầm cảm – Hỗn hợp cả hưng cảm và trầm cảmNgười bệnh pha hưng cảm có các biểu hiện
Hưng phấn, cởi mở hoặc cáu kỉnh Tự cao, nhiều ý tưởng ngủ ít hoặc mất ngủ nói nhiều Tư duy phi tán Dễ nổi cáu Dễ bị kích thích hoặc suy nhược Dễ có các hành vi xung động như mua sắm quá mức, lạm dụng rượu và ma tuý, quan hệ tình dục bừa bãi không nghĩ đến sự nguy hại…Người bệnh pha trầm cảm có các biểu hiện
Khí sắc trầm Thay đổi cân nặng Rối loạn giấc ngủ Mất sinh lực, dễ mệt mỏi Vận động chậm chạp Cảm giác kích thích hoặc suy nhược Cảm thấy vô giá trị Khó tập trung chú ý, Mất quan tâm thích thú trong công việc, sinh hoạt vui chơi giải trí Có ý tưởng tự sát
Những dặn dò của BS Khám bác sỹ theo đúng hẹn kể cả khi bệnh đã thuyên giảm, điều này rất quan trọng để BS theo dõi và kiểm soát tổng thể. Thường xuyên kiểm tra xét nghiệm máu để biết nồng độ thuốc uống có an toàn và đạt hiệu quả điều trị không. Kiểm tra chức năng gan thận định kỳ để có điều chỉnh kịp thời. Gia đình, bạn bè cảm thông chia sẻ, nâng đỡ người bệnh về tinh thần để điều chỉnh hành vi và phát hiện nếu có vấn đề bất thường. Bản thân người bệnh cần phải chia sẻ, tham gia vào nhóm đồng đẳng hoặc nhóm tự giúp đỡ với những người có cùng cảnh ngộ.
Gọi ngay 043. 6275762 để tìm ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề của bạn!
Mách Bạn Những Thực Phẩm Dành Cho Người Bị Rối Loạn Tiền Đình?
Bữa ăn hằng ngày rất quan trọng cho việc duy trì sức khoẻ và hoạt động của cơ thể chúng ta nói chung. Latigg sẽ chia sẻ cùng bạn những thực phẩm dành cho người bị rối loạn tiền đình?
Người bệnh rối loạn tiền đình cần bổ sung những thực phẩm là: các loại hạt, vitamin, rau củ, axit béo Omega-3,… Chúng giúp tăng cường hệ miễn dịch và hỗ trợ điều trị bệnh.
Cơ thể chúng ta không thể sản xuất axit béo Omega-3 mà chủ yếu thu nạp từ thức phẩm. Axit béo Omega-3 rất quan trọng đối với trí não. Vì nó tham gia vào quá trình truyền dẫn thần kinh.
Hạt bí ngô rất giàu Omega-3, hạt bí rất tốt cho người bị bệnh về tiền đình và cũng tăng cường hệ thống miễn dịch của bạn.
Dầu của cá hồi (hoặc các loại cá khác: cá ngừ, cá thu, cá bơn,…) có chứa rất nhiều chất béo này.
Các loại hạt như vừng, hạt hướng dương, … chứa nhiều loại axit này. Người bị rối loạn tiền đình ăn những hạt này rất tốt.
Súp lơ là loại rau thông dụng ở Việt Nam. Nó cũng là nguồn cung cấp axit này. Bạn có thể chế biến cho phù hợp với người bệnh như luộc, nấu canh, làm lẩu, …
Quả óc chó tuy không trồng được ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay nó bán rất nhiều ở các siêu thị. Nó chứa rất nhiều axit này và rất tốt cho người bị rối loạn tiền đình.
Các loại thực phẩm khác giàu omega-3 bạn có thể thay đổi trong bữa ăn để khỏi nhàm chán như: bắp cải, đậu phụ, …
Hai chất này rất quan trọng trong việc bảo trì những xung động thần kinh bình thường. Các chất này rất cần thiết cho người bị rối loạn tiền đình.
Giúp tăng cường phát triển hệ miễn dịch của bạn, kẽm có nhiều trong hải sản, đặc biệt là con hàu.
Theo các báo cáo gần đây, nếu biết tuân thủ bữa ăn đúng giờ và điều độ sẽ giúp cải thiện bệnh rối loạn tiền đình hiệu quả. Giúp hệ tiêu hóa và cơ thể dung nạp chất dinh dưỡng tốt hơn.
Việc đảm bảo ăn đúng giờ sẽ làm cho chất béo không bị lưu trữ trong cơ thể và quá trình trao đổi chất ổn định hơn. Thói quen ăn uống không điều độ sẽ làm thay đổi đồng hồ sinh học. Đồng thời làm tăng nguy cơ béo phì.
Bữa ăn sáng rất quan trọng
Hạn chế ăn uống nhiều vào buổi chiều và tối
Nếu ăn nhiều vào thời điểm từ 16 – 19 giờ thì chức năng của gan có thể phản ứng tiêu cực. Lượng glucose trong máu tăng và gây nên những cơn đau đầu, mất tập trung. Đây cũng là một trong những triệu chứng gây nên rối loạn tiền đình.
Không nên ăn tối quá muộn với thức ăn nhiều đạm. Vì rất khó tiêu hoá và sẽ làm lượng cholesterol đọng trên thành động mạch dẫn đến xơ vữa động mạch.
Sống khỏe – sống vui
Bí quyết hiệu quả giúp đánh tan Rối Loạn Tiền Đình nhanh chóng.
Chị Thảo Nguyên chia sẻ bí quyết hết Rối Loạn Tiền Đình sau 1 tháng điều trị.
Sự thật về triệu chứng kinh hoàng của Rối Loạn Tiền Đình qua lời chia sẻ của người bệnh.
Tiền Đình Hoàng – Lấy lại niềm tin trong việc điều trị Rối Loạn Tiền Đình.
Bí quyết hết chóng mặt, đau đầu, mất ngủ, cải thiện tuần hoàn máu lên não sau 7 ngày.
Rối Loạn Trầm Cảm (Major Depressive Disorder)
Cathy là một luật sư vừa mới được thăng chức thành cổ đông năm ngoái. Trong công ty, cô được coi là một trong những nguời trẻ tuổi đầy hứa hẹn nhất. Thế nhưng mặc cho những thành tựu mà mình đạt được, Cathy thường xuyên nghi ngờ về khả năng của bản thân và cho rằng mình không xứng đáng với chức vụ vừa nhận được. Hơn cả chuyện thấy chán nản, mệt mỏi, cô còn cảm giác mình đang tê dại dần đi. Mấy tháng vừa qua cô mỏi mệt và khó chịu với mọi thứ một cách bất bình thường. Cảm xúc của cô càng trở nên tệ hại hơn khi một khách hàng của công ty mà cô chịu trách nhiệm đổi sang một công ty khác. Dù quyết định chuyển công ty nằm ngoài vòng điều khiển của cô nhưng Cathy không ngừng tự trách chính mình. Cô giải nghĩa sự kiện này như một tấm gương phản chiếu sự bất lực của mình trong công việc dù những khách hàng khác của cô đều khen ngợi khả năng làm việc và những cổ đông lâu năm đều có những lời nói tích cực dành cho cô.
Cathy lúc nào cũng mong được đi làm và cô thực sự yêu thích công việc của mình. Nhưng kể từ khi vị khách đó chuyển công ty, thì chuyện đi làm trở thành một gánh nặng không thể chịu nổi với cô. Cathy không thể nào tập trung vào công việc được và thay vào đó cô suốt ngày nghiền ngẫm về sự bất lực của mình. Dần dà cô thường gọi cáo ốm và dành hầu hết thời gian ngồi ở trên giường nhìn đăm đăm cái TV mà không để ý chương trình gì đang chiếu trên đó và cô hầu như không ra khỏi nhà. Cathy thường xuyên cảm thấy cả người lờ đờ thiếu sức sống nhưng không thể nào ngủ được, khẩu vị cũng mất đi. Bạn thân lo lắng gọi điện cô cũng chả buồn nhấc máy mà chỉ ngồi đó thụ động nghe tin nhắn để lại trên máy bàn. Cô không muốn làm bất kỳ thứ gì, cũng không muốn nói chuyện với ai. “Cuộc sống đã đánh mất đi ý nghĩa cũng như sự thú của nó. Công việc làm không tốt, ngay cả các mối quan hệ cũng xử sự không xong. Mình đáng bị cô độc như thế”. Cô nghĩ.
Cathy nghĩ các mối quan hệ xã hội của cô là tai họa và dường như mọi chuyện chẳng hề chuyển biến theo chiều hướng tốt đẹp nào. Cô ly dị với chồng đã năm năm và người bạn trai gần đây nhất cũng đã có bạn gái mới. Cô đã cố gắng đến tuyệt vọng mong muốn bản thân mình trở nên năng động hơn một tý nhưng dần dà cô chả còn quan tâm nữa. Mọi chuyện dường như trở nên vô vọng. Mặc dù cô thường hay đến các buổi tiệc của công ty nhưng dường như cô không thuộc về nơi đó. Ai cũng có đôi có cặp chỉ có cô là lẻ loi một mình. Mọi nguời không ai hiểu sự cô đơn sâu thẳm ấy và dường như mọi chuyện sẽ khá hơn nếu cô chết đi. Mặc dù cô thường suy nghĩ đến việc tự tử nhưng cô lại sợ điều đó sẽ khiến cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn bây giờ. Cathy được chẩn đoán là mắc rối loạntrầm cảm nặng.
Có nhiều người nghĩ rằng mất đi khách hàng, lại gặp phải chuyện người yêu cũ có người yêu mới mà bản thân vẫn đang lẻ loi một mình ai mà chả buồn? Tại sao lại bảo cô ấy mắc chứng trầm cảm? Đúng vậy, làm sao chúng ta phân biệt được giữa trầm cảm và nỗi buồn bình thường?
Trong cuốn Abnormal Psychology mà tôi đang sử dụng có liệt kê ra cách phân biệt giữa rối loạn trầm cảm và nỗi buồn thông thường. Trong đó có những điểm chính như sau. Với những người bị rối loạn trầm cảm.
1. Tâm trạng thay đổi ngày càng nặng nề và tồi tệ trong mọi tình huống. Tâm trạng và cảm xúc của người đó không cải thiện , dù cho chỉ là tạm thời, khi anh/cô ta tham gia các hoạt động mà giải trí hay gây cười.
2. Tâm trạng thay đổi mà không có bất kỳ sự kiện hay nguyên nhân nào xảy ra trước đó, hoặc sự việc không tồi tệ đến mức khiến cảm xúc của họ bất ổn cực kỳ đến như vậy.
3. Tâm trạng chán nản, mệt mỏi buồn bã đi cùng với việc người đó không thể hoạt động bình thường trong các hoạt động xã hội và việc làm. Ngay cả những chuyện đơn giản nhất dường như trở nên quá sức với anh/cô ta.
5. Sự thay đổi tâm trạng khác hẳn với nỗi buồn bình thường. Nó có thể rất “lạ” cảm giác như bản thân bị nuốt chửng bởi những đám mây mù hoặc chìm sâu trong những hố đen không lối thoát.
“Trầm cảm không phải là khi bạn thấy buồn vì mọi thứ không xảy ra theo ý bạn mà là bạn thấy buồn mặc cho mọi việc vẫn đang diễn biến tốt đẹp.” (Depression is not when you feel sad that everything goes wrong. Depression is when you feel sad even if everything is going right) – Kevin Breel, một nghệ sĩ hài đã dùng câu nói này để khái quát những trải nghiệm của anh với chứng rối loạn này.
Vậy thì những triệu chứng đi kèm được đề cập ở phần số 4 là gì? Rối loạn trầm cảm có rất nhiều rất nhiều triệu chứng nghiêm trọng được chia ra vào bốn hạng mục khác nhau : cảm xúc, nhận thức, sinh lý và hành vi. Chúng ta sẽ khám phá các triệu chứng dưới mỗi hạng mục này sau đây.
1. Triệu chứng của cảm xúc:
Tâm trạng chán nản, khó chịu là triệu chứng thông thường nhất và dễ thấy nhất của chứng trầm cảm. Những người mắc bệnh thường diễn tả rằng họ hoàn toàn cảm thấy tăm tối, ảm đạm. chán nản, thất vọng. Và vì phần chịu trách nhiệm cảm xúc trong não bộ cũng là phần chịu trách nhiệm cho những cơn đau vật lý mà bạn cảm nhận nên khi cảm xúc của bạn tiêu cực thì đồng thời bạn cũng cảm thấy đau đớn ở phần nào đó của cơ thể mình. Mức độ nặng nhẹ khi mắc rối loạn trầm cảm có để chạm đến mức cực kỳ đau đớn và quá sức chịu đựng.
Andrew Solomon, tác giả của cuốn “Quái vật giữa ngày trưa” đã diễn tả quá trình từ một nỗi buồn bình thường thành trầm cảm nặng của mình như sau:
” Tôi trở về khu rừng nơi tôi thường ra chơi lúc nhỏ với em mình. Ở đó có cây sồi đã đứng sừng sững giữa đất trời hàng trăm năm qua. Tôi và em trai thường hay quanh quẩn dưới bóng râm của nó. Vậy mà chỉ trong vòng 20 năm, một nhánh tầm gửi đã phát triển và gần như nhấn chìm cây sồi dưới những vòng dây tươi tốt và xum xuê. Những gì bạn có thể thấy bây giờ chỉ là vài nhánh sồi yếu ớt cố gắng bám trụ lại. Tôi thấy mình như cây sồi ấy. Trầm cảm đã bủa vây lấy tôi như nhánh tầm gửi chiếm đoạt thân cây sồi nọ. Nó đang hút dần sức sống bên trong và quấn quanh tâm trí tôi, trở nên xấu xí nhưng lại còn “sống” hơn cả bản thân tôi.”
2. Triệu chứng của nhận thức: Bên cạnh việc thay đổi cảm xúc của người bệnh, rối loạn trầm cảm còn khiến cho họ thayy đổi suy nghĩ về bản thân và môi trường xung quanh. Những người mắc rối loạn này thường để ý thấy dòng suy nghĩ của họ bị chậm lại, khó tập trung và dễ bị phân tâm. Song song còn có cảm giác tội lỗi và vô dụng. Họ thường tự trách bản thân nếu có chuyện gì không như ý xảy ra dù cho đó không phải là lỗi của họ đi chăng nữa. Họ dồn hết sự chú ý vào những mặt còn khiếm khuyết của băn thân, môi trường và tương lại. Rất nhiều người sau đó còn nảy ra ý nghĩ tự hại bản thân. Suy nghĩ muốn tự tử dần dần trở nên rõ rệt hơn. Sau một khoảng thời gian, người bệnh cho rằng mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn nếu họ chết đi. Cô Cathy trong ví dụ mà tôi đưa ra ban đầu cũng từng nghĩ đến cái chết không ít lần. Đó là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của rối loạn trầm cảm.
3.Triệu chứng của sinh lý cơ thể. Người bệnh lúc nảo cũng thấy mỏi mệt, cả cơ thể đều đau, thay đổi mạnh trong khẩu vị và giấc ngủ. Như Cathy, cô thường xuyên cảm thấy mệt mỏi. Ngay cả những việc đơn giản nhất như đánh răng, tắm rửa và thay đồ bỗng trở nên quá sức với cô.
Sự thay đổi của giấc ngủ là triệu chứng thường thấy của rối loạn trầm cảm, nhất là khó ngủ. Cái này thường đi cùng với chuyện nhận thức, suy nghĩ bị ảnh hưởng mà tôi đã đề cập bên trên. Một số người còn không thể ngủ yên giấc và họ thường dậy sớm khoaangr một, hai giờ so với bình thường. Một triệu chứng ít thấy khác là ngủ nhiều hơn bình thường. Người bệnh còn không cảm thấy hứng thú gì với những hoạt động giải trí mà họ từng thích. Một trong những ví dụ thường thấy nhất là họ không còn hứng thú gì với chuyện chăn gối nữa. Một số người còn cảm thấy đau cả người và nhức đầu không thôi.
Các triệu chứng của rối loạn trầm cảm còn thể hiện ở những thứ mà người bệnh làm và mức độ họ làm những chuyện đó. Hành vi dễ thấy nhất ở những người này là hành động chậm chạp. Bệnh nhân đi và nói chuyện như thể họ đang ở trong một cuốn phim chiếu chậm. Một số người còn trở nên bất lực, không thể di chuyển được và ngừng luôn việc nói chuyện, hoặc họ có thể ngừng một khoảng thời gian cỡ chừng vài phút trước khi trả lời một câu hỏi nào đó.
Một người phải có từ năm triệu chứng trở lên thuộc bất kỳ hạng mục nào mà tôi nêu trên, xuất hiện gần như là hằng ngày trong khoảng 2 tuần thì người đó mới được chẩn đoán mắc rối loạn trầm cảm. Cathy có những dấu hiệu như khó ngủ, tự trách bản thân, không thể rời nhà, không thể tự làm vệ sinh cá nhân, không muốn nói chuyện với ai, cảm xúc chán nản… Theo DSM-5, tất cả những triệu chứng trên của Cathy đều phù hợp với những triệu chứng của người mắc rối loạn trầm cảm.
Một điều quan trọng trong việc xác định một người có bị trầm cảm hay không là họ phải chưa bao giờ trải qua cảm giác quá khích, hoặc quá vui vẻ đến mức không thể điều khiển bản thân mình trước hoặc sau khi tâm trạng trở nên tồi tệ như lọt vào hố đen không lối thoát. Nếu không thì họ sẽ được chẩn đoán là mắc rối loạn lưỡng cực thay vì trầm cảm.
Đọc đến đây chắc bạn sẽ hỏi tôi rằng, nguyên nhân gì gây ra rối loạn trầm cảm và cách chữa trị của nó?
Các nhà tâm lý học hiện nay vẫn còn đang tranh luận đâu là nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm. Thật khó để mà đưa ra câu trả lời xác định khi có quá nhiều vấn đề còn đang nằm trong vòng nghiên cứu và thí nghiệm.
Các học giả theo thuyết tiến hóa cho rằng những triệu chứng từ nhẹ đến trung bình của rối loạn trầm cảm có thể phần nào đó hữu ích với bệnh nhân ngoài việc gây ra đau đớn và làm gián đoạn cuộc sống của họ. Dưới góc nhìn của tiến hóa, những triệu chứng như hoạt động chậm chạp , mất đi động lực, cách ly ra khỏi những người khác…có thể là đại diện cho hệ thống phản ứng giúp cho người đó thoát ra khỏi một tình huống đang dần xấu đi. Ở mức thấp và trong khoảng thời gian ngắn, tâm trạng chán nản có thể giúp chúng ta tìm lại được động lực của mình, đồng thời lưu trữ năng lượng cơ thể và dùng nó vào việc đối phó với những tình huống mất mát và thất bại.
Dưới góc nhìn của xã hội, từ khi sinh ra đến chết đi, cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng quấn với cuộc sống của những người khác. Chúng ta sống trong một tập thể và chúng ta cảm thấy buồn khi một người nào đó thân thiết đột nhiên mất đi, hoặc một mối quan hệ chấm dứt, hay lúc chúng ta mất đi việc làm…Trong những trường hợp như vậy, một số bác sĩ cho rằng thay vì cảm giác buồn vì mất đi người khác, chúng ta cảm thấy chán nản vì chúng ta có thể mất đi “vai trò xã hội” của mình hoặc cách mà chúng ta nghĩ về bản thân.
Với những nhà sinh học thì họ lại cho rằng nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm có thể nằm trong gien của mỗi người và nó có thể là kết quả từ sự ảnh hưởng của nhiều gien khác nhau. Hàm lượng chất dẫn truyền thần kinh – serotonin thấp có thể là nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm. Bởi vì serotonin quan trọng trong việc điều khiển giấc ngủ, khẩu vị và những phản ứng khác trong cơ thể nên thiếu hụt chất này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng dẫn đến các rối loạn tâm lý như trầm cảm, tâm thần phân liệt, lo lắng… Một số loại thuốc chữa trị rối loạn trầm cảm có cơ chế hoạt động làm tăng hàm lượng serotonin trong cơ thể như Prozac được sử dụng rộng rãi vì tính an toàn và ít tác dụng phụ.
Bên cạnh với việc dùng thuốc, thì phương thức chữa trị dựa trên suy nghĩ – hành vi cũng được sử dụng rộng rãi. Phương thức này hướng dẫn người bệnh tập thay đổi cách suy nghĩ về mình và về mọi thứ xung quanh. Người bệnh sẽ phải suy nghĩ một cách khoa học, hệ thống hơn, thay vì đổ lỗi cho chính mình khi gặp phải trắc trở, thất bại nào đó thì họ phải học cách xem xét tình huống xung quanh họ, những vấn đề, hoặc nguyên nhân ngoài lề có thể góp phần làm nên sự thất bại đó. Hiệu quả của phương pháp này càng tăng nếu đi kèm với việc dùng thuốc điều độ. Hiện tại, phương pháp điều trị kết hợp giữa thuốc chống tái hấp thu serotonin có chọn lọc và tham vấn tâm lý là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với rối loạn trầm cảm.
Nguồn: Abnormal Psychology by Thomas F. Oltmanns, 7th edition.
Người dịch & chuyển ngữ: Hải Đường Tĩnh Nguyệt
Bạn đang xem bài viết Bạn Có Đang Bị Rối Loạn Cảm Xúc? trên website Visuantoancuaban.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!